NHỮNG ĐIỀU CẦN PHẢI PHƠI BÀY.
Lời thưa trước.
Khi bước chân vào con đưòng đấu tranh mỗi người trong chúng ta phải chuẩn bị đón nhận và ứng xử với búa rìu của dư luận. Vì bản chất của đấu tranh là vì quần chúng, dù muốn hay không muốn, người đấu tranh, tự nhiên một cách nào đó, đã nhân danh vì tập thể. Cho nên quần chúng tự nhiên có quyền chất vấn và thắc mắc về mình, về việc mình làm, và nhân cách của mình. Nếu không chuẩn bị được một tinh thần bình tĩnh, can đảm, sáng suốt và trách nhiệm để ứng xử những đòi hỏi từ quần chúng, lắm lúc khắt khe và nghiệt ngã, chúng ta không thể đi vào đấu tranh cho xã hội được. Ngay cả những tấn công mang tính cách cá nhân, đây, bên cạnh những tiêu cực, cũng là một khía cạnh tích cực của dân chủ tự do.
Với tư thế là một người Việt đang tạm dung xứ người, trên con đường cùng đồng bào Việt Nam trong nước đấu tranh trong diễn trình dân chủ hóa đất nước, Tôi đã học đưọc năm (5) điều cơ bản:
1-Cuộc đấu tranh này là của toàn thể nhân dân Việt Nam, và nhân dân Việt Nam trong nước mới đủ tư thế, tư cách về pháp nhân, tộc nhân, và điều kiện cần phải có để đưa cuộc đấu tranh đến thành công. Và như vậy, ngoài đồng bào Việt Nam trong nước ra, không ai có thể làm thế , làm thay được. Đây là bổn phận và trách nhiệm của đồng bào anh chị em dân chủ trong nước trong tư thế chủ lực. Như vậy chỉ có đống bào trong nước, công dân của nước Việt Nam, mới có đủ tư thế thẩm quyền xác nhận tính chính đáng của bất kỳ cơ chế, thể chế và biểu tưọng nào của đất nước dân tộc.
2- Người gốc Việt lưu lạc xứ người, do bản chất tự nhiên và khách quan của đời sống di dân, nếu còn hưóng về tương lai dân chủ của đất nước, dù có muốn cũng không thể làm khác hơn đưọc ngoài nhiệm vụ gánh bớt trách nhiệm cùng đồng bào trong nước trong những công việc mà người ở hải ngoại có điều kiện thuận tiện hơn bên trong nước, chứ không phải vì người trong nước không thể làm được. Nếu người gốc Việt không làm, thì đồng bào trong nước vẫn tiến hành và làm đuợc dù có thể gian nan hơn. Ngưọc lại người bên ngoài không thể làm đưọc những việc then chốt như đối đầu trực diện với cơ chế độc tài, gần gũi vận động đồng vào đấu tranh v.v
3-Khi trích dẫn sách vở ngoại quốc viết về người Á Châu, đặc biệt là từ những thập niên trưóc trở đi, phải phân tích kỹ lưỡng những lời nhận định phê bình của người phương Tây về con người và đất nước Việt Nam, vì tâm lý “thực dân thưọng đẳng” của họ đối với người khác mầu da, họ không có được cách nhìn đúng đắn chuẩn xác. Như người Pháp vẫn thường coi người Viêt Nam: đàn ông chỉ đáng làm tài xế, bồi bếp; đàn bà chỉ đáng làm con ở, đĩ điếm..Và dưói con mắt của các giáo sĩ Tây phưong, vua Quang Trung xấu xí hung bạo v.v Họ không hiểu đuọc cách hành xử mực thưóc của người Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng trong quan niệm Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng (Nguyễn Gia Kiểng lạc vào lỗi này; khuyết điểm của Vũ Ngự Chiêu, tuy không nặng, cũng là ở chỗ này) Và ngay ở Mỹ phải đến thập niên 70 trở đi óc khinh miệt người khác chủng tộc mới có gia giảm đáng kể nhờ có sự giao lưu mở rộng và hiểu biết cao hơn về văn hóa nhân bản của nhân loại sau cuộc đấu tranh nhân quyền và dân quyền, đứng đầu là mục sư Mạc tin-luy- tơ-- kinh ( Martin Luther King).
4- Hồi ký, dù của bất cứ ai, bên cạnh những sự kiện bằng chứng lịch sử, cũng đều cưu mang tính chất biện minh, bào chữa thanh minh cho bản thân mình, nhũng người liên hệ thân thuộc của mình. Nhũng cái sai, xấu không thể dấu hay đã lộ rồi mới viết đến, còn dấu đưọc cứ dấu! (như hồi lý Phạm Duy). Chẳng ai viết hồi ký để lên án mình cả. Có lẽ trong đòi tôi chỉ thấy có đưọc cụ Phan Bội Châu viết hồi ký để tự phê phán mình nhìn nhận sự sai lầm bất tài của mình một cách khá chi tiết, kể cả những việc nếu không nói không ai biết.
5- Sự thật- là nền tảng của dân chủ tự do, và sự thật chỉ có thể có đưọc khi có tự do ngôn luận trong tranh luận và phản bác với những chứng cớ , suy luận thuận lý (logic) vượt khỏi niềm tin; và một nửa sự thật sẽ tai hại hơn là nói dối. Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa, biết điều nhân, nghĩa mà không làm là bất trí vô dũng..
Chính nguyên tắc thứ 5 này đã buộc một con người có lương tâm phải có bổn phận lên tiếng bất kỳ sự việc gì có hại cho sự thật, tức là có hại cho lý tưởng của dân chủ, ý thức dân chủ, đặc biệt là trong hoàn cảnh dân trí của xã hội Việt Nam, và con người Việt Nam, cả trong lẫn ngoài hôm nay.
Sở dĩ tôi xác định như vậy vì đã có rất nhiều bè bạn thân hữu góp ý cản ngăn tôi rằng đừng nói những điều ấy, rằng không có lợi, rằng sẽ có thể đụng chạm anh này, chị nọ, ông ấy, bà kia! Và nhất là dẫu sao mình cũng từng sống ở miền Nam mà đi ra, không nên nói thế v.v
Trưóc khi vào việc chính tôi xin thưa ngay là ở đây: vấn đề hôm nay, dù là ở đâu cũng là việc của chung, việc đất nưóc, không có chỗ cho những tình cảm cá nhân vị nể ở đây. Nếu những cá nhân có liên quan đến những sự việc cần phải nói, thì đó là do việc làm của những cá nhân ấy có liên quan đến việc chung. Như vậy cho dù họ có làm đúng điều “nghĩa lý” chung hay không họ cũng đã tự đặt họ vào trong vòng dư luận quần chúng, lời khen tiếng chê: vui vẻ nhận hoa, thì cũng phải can đảm chịu nhận lãnh cà chua trứng thối. Và rằng Sự Thật không bao giờ bất lợi cho Chính Nghĩa, mà còn ngược lại nữa kìa: Sự Thật chỉ bất lợi cho những âm mưu bất chính, não trạng bất lương mà thôi. Còn nói là vì đã từng sống ở miền Nam thì không nên nói lên cái tiêu cực ở miền Nam thì quả thật chúng ta ngụy tín mất rồi.. Chúng ta thật bất công, bất lương và bất nhân với những anh chị em dân chủ trong nước v.v Những người từng sinh ra và lớn lên tại đất Bắc, có nhiều người đã từng hưỏng bổng lộc quyền uy của chế độ, thế mà chúng ta hể hả, mừng vui nghe họ trần tình về cái xã hội, chế độ đã từng “cưu mang đào tạo nuôi nấng” họ. Chúng ta tung hô khuyến khích họ! Trong nhiều trưòng hợp, nhiều người còn hậm hực vì người dân trong nước khi nói về những “đêm giữa ban ngày” của quê hưong đã không hoặc chưa đề cập đến cụ thân sinh của mình “đúng mức”, mà theo họ, cụ là một trong những “tội đồ có nợ máu” với nhân dân miền Nam (sic)!!! Trong khi , cũng như thế , tôi có làm gì khác hơn những người ở trong nước đâu? Cái khác là quí anh chị đã từng sống ở đất Bắc dưói chế độ CSVN thì họ bàn về những khốn nạn của miền Bắc, nhũng khốn nạn vẫn còn làm đau đớn nhục nhã quê hưong đất nước. Còn tôi, sống ở miền Nam thì bàn những đốn mạt ti tiện ở miền Nam! Những ti tiện bẩn thỉu đốn mạt vẫn còn làm nhục tổ tiên, mà nếu cứ để tiếp diễn sẽ làm hại dân chủ, bán đứng đất nưóc dân tộc trong tương lai- Các bạn góp ý ngăn cản, lên án tôi, các bạn có nhận ra sự vô lý phe phái một chiều, ngụy tín với não trạng hàm ơn tối dạ, thiển cận, và cái tâm tư thiếu sòng phẳng công chính của mình không? Tôi sẽ bàn chi tiết về não trạng này trong bài viết, để xin phép đưọc vào chủ đề chính.
Tính Bất Lương của cái gọi là chiến dịch vinh danh cờ Vàng:
Não trạng Cờ Vàng và Mặc cảm Lằn Ranh Quốc Cộng, đã trở thành gánh nặng cản trở sự đoàn kết dân tộc trong tiến trình dân chủ hoá đất nước Việt Nam.
Trưóc đây Tôi có viết một loạt bài nhận định về tình hình hải ngoại của những người ngoại quốc gốc Việt (Đất nước một mầu sương) nhưng vì không chủ trương “tranh đấu tại hải ngoại” nên Tôi không bàn nhiều trừ khi sự việc có ảnh huởng lớn đến tình hình ở trong nước. Nhưng gần đây, sau khi ở trong nước bị trục xuất ra, Tôi có dịp qua Mỹ lo việc cá nhân, mới nhìn rõ hơn đưọc những sinh hoạt của người gốc Việt, đặc biệt là sinh hoạt chính trị có liên quan đến cuộc đấu tranh dân chủ tại Việt Nam. Những suy tư nhận định đã chai cứng từ năm 1975 vẫn còn tồn đọng nặng nề dù sau hơn 30 năm biến đổi từ thời cuộc cho đến con người!!!
Thật sự là kinh khủng khi có thể tưọng tưọng đưọc một não trạng, không phải chỉ của một cá nhân, mà của cả một thế hệ đã không tiến hóa sau hơn 30 năm, tệ hại hơn nữa là đã “di truyền” xuống thế hệ nối tiếp!!! Tôi đã “kinh hoàng” khi một cá nhân bất luận là ai cũng có thể “trở thành” Cộng Sản nằm vùng! Và khi có một sự “khác biệt” nào đó thì cái tập thể “chống cộng” và “thể chế chống cộng” vốn dĩ đã bé nhỏ so với dân số trong nước Viêt Nam, lại càng ngày càng nhỏ hơn nữa (vì già nua, thế hệ nối tiếp mai một do hoàn cảnh khách quan như hội nhập hoàn toàn không còn ý thức văn hóa, ngôn ngữ Việt, và hôn nhân dị chủng v.v) lại càng thu nhỏ hao mòn khi bỗng nhiên có thêm những “tên cộng sản nằm vùng” đưọc “khai quật và khai trừ”, có khi đưọc “tái hồi”.
Bây giờ thì Tôi hiểu tại sao đảng CSVN không cần đặt trạm tuyển mộ đảng viên và ban ám sát ở hải ngoại!!!)
Khì nhìn những đồi bại về nhân cách, sa đọa về tư tưởng trong nếp văn hóa ứng xử với nhau như vậy, Tôi quyết định phải viết về “hải ngoại” này một lần nữa. Vì những sinh hoạt “chính trị” như vậy, đã nhân danh tự do dân chủ trong nước, đang đi đến vực thẳm phân hóa, bất nhân, phi đạo lý chẳng khác gì cung cách hành xử của chế độ CSVN hiện nay- và hiện trạng này đã, và đang gây ảnh hưỏng xấu cho việc xây dựng ý thức dân chủ tự do trong nước càng ngày càng nguy hiểm! Một trong nhũng nguyên nhân rõ nét nhất là Não trạng Cờ Vàng và Mặc cảm Lằn Ranh Quốc Cộng, đã và đang trở thành gánh nặng cản trở sự đoàn kết dân tộc trong tiến trình dân chủ hoá đất nước Việt Nam.
VẤN ĐỀ CỜ QUẠT!
Trong suốt hơn 30 năm kể từ ngày bị Mỹ “bỏ rơi”, rồi thua cuộc bỏ chạy ra nước ngoài, những nhân sự của chế độ Ngụy độc tài quân phiệt miền Nam đã đưọc nâng cấp từ chiến tranh tương tàn “chống-CSVN” lên “bậc” đấu-tranh-cho-tự-do-dân-chủ. Ngay cả “kẻ độc tài độc diễn” như Nguyễn Văn Thiệu khi còn sống đã có lần lên đài phát thanh “góp ý hưóng dẫn” người Việt đấu tranh dân chủ nữa cơ đấy! Hèn gì tôi vẫn thưòng nằm mơ thấy Hồ Chí Minh và Pôn Pốt hội thảo nhân quyền và lên án tội ác với đám tổng thống hiếu chiến của Mỹ như Rích Chà Ni Xơn!!! (bây giờ theo góp ý của một bạn trẻ -Thăng Long- từ trong nước đi du học- thì CSVN nên được gọi là đại Ngụy- và tôi đồng ý cả hai chân hai tay. Nói cho cùng đại hay tiểu thì Ngụy vẫn là Ngụy) Kể ra cũng là điều phúc cho đất nước khi có những đưá con độc tài quân phiệt nay lại “trở nết” rao giảng nhân quyền và dân chủ tự do! Nhưng khổ thay, mỹ từ “tranh đấu cho dân chủ tự do” đã đưọc “độc quyền hóa” cho “thể chế chống cộng”, và đặc biệt là lá cờ vàng ba sọc của chế độ NGỤY VNCH dù đã chết, nhưng vẫn được dùng như một định chuẩn giá trị nhất, duy nhất để nhận diện đánh giá người Việt có thật sự yêu tự do dân chủ hay không!!! Nhất là từ khi có cái gọi là “chiến dịch xác định lằn ranh Quốc Cộng và vinh danh cờ vàng” đuợc phát động! Điều này nghe ra thì thật sự khôi hài và bệnh hoạn! Nhưng tại sao nước đời “tị nạn” lại lắm “giun đỉa” như vậy?
Não Trạng Cờ Vàng, mặc cảm lằn ranh Quốc Cộng: Lối mòn tư duy!
Ý niệm lá cờ là biểu tưọng của một quốc gia dân tộc dựa trên quan niệm quốc gia hiện đại (Modern Nation State) thật sự đưọc khởi đi từ ý thức dân chủ, người dân làm chủ xã hội và đất nước đưọc coi như khởi đầu từ cuộc cách mạng Mỹ vào năm 1777. Ở các nơi khác, lá cờ vẫn chỉ là biểu tưọng của một vưong xứ (vưong kỳ) hay đế quốc, (đế kỳ). Cho đến khi phong trào giải thực khởi sự (giải thể cơ chế đế quốc thực dân) với sự độc lập của nhiều quốc gia, và sự ra đòi của nhiều quốc gia mới, thì ý niệm lá cờ biểu tưọng cho quốc gia dân tộc đã trở thành điều cơ bản chung của mọi xứ sở trên thế giới. Có nhiều quốc gia đã giữ lại lá cờ của thời phong kiến, quân chủ, đế quốc làm quốc kỳ, có những quốc gia chọn cờ mới v.v nhưng tựu trung lá cờ chỉ thật sự trở thành ý nghĩa quan trọng và có hồn dân, hồn nước khi đuợc đại đa số nhân dân quốc gia đó thừa nhận bằng những cách thức khác nhau không theo một mô thức nhất định- đó là chưa nói đến tính văn hóa của từng dân tộc Đông Tây trong cách trân trọng lá quốc kỳ của họ cũng vẫn khác nhau biền biệt). Căn bản vẫn là “tấm vải mầu” đó đã đưọc đa số nhân dân quốc gia đó mặc nhiên thừa nhận là biểu tượng chung của họ trên trưòng quốc tế. Và nó sẽ còn thay đồi tùy vào quan điểm, nhu cầu văn hóa, xã hội, và chính trị thay đổi của những thế hệ trong tưong lai của quốc gia đó (như trưòng hợp của Úc Đại Lợi đang trên đưòng tiến đến nền cộng hoà.)
Lịch Sử lá cờ vàng ba sọc.
Với đất nưóc dân tộc Việt Nam, sự việc ra đòi của lá quốc kỳ theo ý niệm mới của thời đại trong nhu cầu chính trị bang giao cũng không nằm ngoài biệt lệ như đa số các quốc gia khác. Có khác chăng là ở sự lấn cấn nhùng nhằng của lịch sữ cận đại tương tàn oan khiên vẫn chưa khai giải đưọc.
Ý thức lá cờ biểu tưọng cho quốc gia dân tộc Việt Nam với kích thưóc trong trường chính trị quốc tế hiện đại chỉ khởi sự chính thức từ năm 1945, mặc dù trong thập niên 1860 khâm sai đại thần Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ có lần đi xứ bên Pháp. Khi Pháp khai mạc đại hội có thủ tục bắn đại bác chào mừng quốc khách, hiện diện lúc bấy giờ có đại diện của An Nam là phái đoàn do cụ Phan Thanh Giản cầm đầu. Người Pháp hỏi phái đoàn An Nam xin đuợc đưa quốc kỳ ra để làm lễ thượng kỳ. Dĩ nhiên phái đoàn An Nam rất lúng túng vì không có ý niệm hành xử ngoại giao với lá quốc kỳ như vậy và cũng không có quốc kỳ. Theo lời thuật lại thì Phan Thanh Giản đã phải lấy tấm nhiễu gói tráp đụng chiếu khâm mạng của Vua ra để làm cờ cho An Nam. Cho đến bây giờ cũng không ai rõ tấm vải bọc mệnh Vua đó mầu gì? Đỏ hay vàng? Vì vua chúa Việt Nam hay thưòng dùng mầu vàng. Nhưng cũng có khi dùng mầu đỏ trong những trưòng hợp trao mệnh lệnh của mình cho thần tử, bầy tôi để tỏ sự mong mỏi “hỷ sự, mã đáo thành công”, và nhất là tỏ mệnh lệnh cương quyết để bậc tôi thần (mầu đỏ) phải cố sức hoàn thành. Nhưng khi Phan Thanh Giản về nưóc chỉ kể lại như một cố sự nhỏ trong du ký mà không trình tấu lên cho vua biết như một nhu cầu chính trị mới.
Như vậy rõ ràng lá cờ vàng ba sọc mà nó đã “chết” năm 1975 và hiện nay đang được “thể chế chống cộng” ở hải ngoại sử dụng, thật sự không phải khởi đi từ lá cờ quẻ ly mà ông Trần Trọng Kim và Bảo Đại đã chọn lựa. Nhưng ta cũng nên bàn về nó một “tí.”
Khi thế lực quân phiệt phát xít Nhật quyết định đảo chính thực dân Pháp vào đầu năm 1945, người Nhật, theo “thông lệ” của đế quốc là phải dựng một nhà nưóc bù nhìn. Người Nhật đã đưa ông Trần Trọng Kim lập chính phủ để trao lại “độc lập chủ quyền cho Việt Nam.” Và ông Trần Trọng Kim đã chọn hình quẻ Ly trong Dịch để làm quốc kỳ, mà theo lời biện giải của ông sau khi chính phủ của ông thất bại, trong quyển hồi ký “Một Cơn Gió Bụi” tức “Kiến Văn Lục” viết vào năm 1949 khi ông lưu vong ở Nam Vang (trong lúc này Việt Minh, Pháp và thế lực tay sai đang tương tranh sau giải pháp Hạ Long) :
“Nưóc Việt Nam đã là một nưóc tự chủ (!?), thì phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca thì từ trưóc vẫn dùng bài “Đăng Đàn”, là bài ca rất cổ mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ trưóc khi có bài nào hay hơn và có ý nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy.
Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gởi về . Có kiểu lá cờ vàng quẻ Ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ.
Lá cờ vàng là từ xưa nưóc ta vẫn dùng. Trong sách “Quốc Sử Diễn Ca” nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tầu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng “Đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly chủ phương Nam. Chữ Ly còn có nghĩa là lửa là văn minh là ánh sáng phóng ra bốn phương.
Lấy sắc vàng sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị trí nưóc nhà, lại có nghĩa chỉ một nưóc văn hiến như ta thưòng tự xưng. Như thế là lá cờ vàng vẽ Ly là có đủ các ý nghĩa.
Song có người nói: Cờ quẻ Ly là một điềm xấu cho nên thất bại, vì ly là lìa. Ly là lìa là một nghĩa khác chứ không phải nghĩa chữ Ly là quẻ. Và việc làm của một chính phủ là cốt ở cái nghĩa lý, chứ không phải sữ tin nhảm vô ý thức.
Việc thất bại là vì tình thế chứ không phải vì lá cờ. Giả sử dùng lá cờ khác mà trong hoàn cảnh ấy có thay đổi đuọc gì không?”[1][1]
Ở đây cần phải nói rõ là ông Trần Trọng Kim biện minh có hơi buồn cưòi là: “nưóc Việt Nam đã là một nưóc tự chủ”!!! Như vậy một là ông ngây thơ, hai là ông cố tình bào chữa. Chứ ai mà lại có thể tin được một nưóc đang bị đô hộ bởi thực dân Tây, rồi lại “đưọc” giải phóng bởi quân phiệt phát xít Đại Đông Á Nhật mà lại có tự chủ bao giờ! Ngay như bây giờ, năm 2004 mà Ia Rắc do “dân chủ nhân quyền” Mỹ “tự nguyện” đến “giải phóng không công” và vừa giao lại “chủ quyền” còn chưa thấy “tự chủ” nữa là! Nhưng ít ra, theo như lời biện giải này thì rõ là nưóc ta trước đó chưa hề có “quốc kỳ”, ít nhất là trong suốt thời gian bị đô hộ theo như ông Trần Trọng Kim ! Nhưng lại có “quốc ca” là bài hát nhạc “cổ, nghiêm trang”, mà theo tôi suy đoán là lối nhạc “thiều” của thời quân chủ nho giáo, (chữ “thiều=nhạc” trong “quốc-thiều”) đưọc hát trong những dịp cử hành lễ lớn trong triều đình chứ không phải loại quốc ca phổ cập mà dân gian ai cũng biết.
Nhưng ông Trần Trọng Kim rõ ràng khiên cưỡng vì ông trung thành với nhà Nguyễn, cho nên ông không nhắc đến thời huy hoàng của đất nước dân tộc gần cận ông nhất là thời Quang Trung Hoàng Đế khi đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh đã dương cờ đỏ đại nghĩa dân tộc: “Mà nay áo vải cờ đào, một tay dựng nưóc xiết bao công trình..” (Ai Tư Vãn, Bắc Cung Hoàng Hậu Ngọc Hân).
Ngay trong tập sử ký của ông, ông Trần Trọng Kim cũng không thẳng thắn viết về Quang Trung Hoàng Đế đúng với tưóc hiệu niên hiệu của Ngài, mà chỉ gọi là Bắc Bình Vưong Nguyễn Huệ theo tưóc của vua Lê phong cho Nguyễn Huệ (Quang Trung) khi ra Bắc dẹp Chỉnh, mà nhà Nguyễn vẫn coi vua Quang Trung là nhà Ngụy. Ta mới thấy tinh thần tôn quân triều Nguyễn của ông khiến ông thiếu trung thực trong tư thế một sử gia. Ông chỉ viết trong tư thế một bầy tôi của triều Nguyễn! Chính vì vậy mà ông đã có chủ ý bênh vực lấy quẻ Ly làm cờ “quốc gia tự chủ”, vì Ly là mặt trời, ngôi “cửu hoàn” tôn quân, mà ông vẫn coi Bảo Đại là vua- và lại vừa ý hướng của Yokohama (khâm sai đại sứ của Nhật Hoàng) là tiến hành chủ nghĩa Đại Đông Á, theo tình thần Mặt Trời Phưong Đông tỏa sáng (Thái Dưong Thần Nữ), dù quẻ Ly cũng có ý chỉ tính Sáng Chói (chữ Minh do chữ Nhật và Nguyệt hội ý chỉ sự mà thành). Nhưng theo các hào khác, nếu là quẻ kép, thì mỗi hào mỗi ý riêng biệt. Thật ra theo đúng tinh thần kinh Dịch chủ quẻ Ly đơn thì chỉ là : “Ly lợi trinh, hanh, xúc tẩn ngưu, cát” (Quẻ Ly lợi cề sự chính, hanh, nuôi trâu cái tốt.) Như vậy ông Trần Trọng Kim đã có chủ ý và cố chọn lá cờ quẻ ly là vì ẩn ý tương nhượng giữa sự tôn quân nhà Nguyễn -Bảo Đại- và sức ép ngầm của “tinh thần” Đại Đông Á Nhật, chứ không phải chỉ đơn thuần là những lý do ý nghĩa mầu vàng- quẻ ly mà ông Trần Trọng Kim đã viện dẫn.
Cũng chính vì vậy mà sau khi phát xít Nhật thua trận, thực dân Pháp tràn vào lại thì cờ quẻ Ly coi như mất biệt. Vì chính phủ của ông Trần Trọng Kim trở thành tội phạm vì đã theo “ủng hộ Nhật”! Nhưng nhân sự của chính phủ thân Nhật của ông đã thoát nạn êm thắm vì nhiều lý do chính trị lúc bấy giờ. Nhưng có một điều phải nói rõ ràng ra ở đây, là Nhật đã vào Đông Dương trưóc đó rồi, nhưng vì thế lực thực dân Pháp đang cai quản Việt Nam đã theo phe trục dưói sự lãnh đạo của chính phủ của thống chế Pê Ten ở mẫu quốc. Cho nên Nhật vẫn cứ để thực dân Pháp nắm hành chính. Cho đến khi có nhu cầu thì Nhật mới “đảo chính” Pháp là vì vậy. Cho nên những nhân sự thực dân Pháp, nói theo lý, thì cũng có tội “theo địch”. Thành ra “xí xóa”! Cũng vì thế mà đến năm 1948, khi Pháp cử tay sai là Nguyển Văn Xuân thi hành giải pháp Bảo Đại để tái thực dân Việt Nam, thì tại Hạ Long, “chính phủ của nưóc Việt Nam tự chủ” lại phải chọn lá cờ khác, đó là cờ vàng ba sọc đỏ. Và đây mói là ngày sinh nhật của lá cờ “bất hạnh”. Nói là bất hạnh vì nó ra đời theo nhu cầu của mẹ đỡ thực dân và đám quốc tịch Tây, tay sai đánh thuê cho thực dân Pháp, rồi sau đó bị lôi cuốn vào với độc tài nhà Ngô, rồi lại bị quân phiệt độc tài lôi kéo theo nhu cầu quyền lợi của đế quốc Mỹ - để rồi chết đứ đừ năm 1975, sau 27 năm bị “Pháp và Mỹ cùng tay sai bản xứ cưỡng hiếp chính trị.” Thân phận của lá cờ vàng quả thật đau đớn như thân phận nhân dân miền Nam Việt Nam nói riêng, và nhân dân cả nưóc nói chung: Chưa bào giờ đưọc sống bay phất phới như là chính mình, cho những người đứng chào mình!
Còn một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng liên quan đến văn minh của dân tộc Việt của chúng ta, xin đưọc thưa ngang ở đây với các vị sử học và đặc biệt là các bạn trẻ Việt Nam. Xin để ý là ông Trần Trọng Kim khi đề cập đến quẻ Ly trong Bát Quái, có nói “.. là vì trong lối chữ tối cổ của ta..” Có thể nhiều bạn trẻ sẽ thắc mắc tại sao kinh Dịch là của Tầu mà chữ trong Bát Quái lại là tối cổ của ta? Xin thưa ngay là theo một số nghiên cứu, trong đó có cụ thân sinh của tôi, mà nếu không lầm, đã có thời gian, trưóc năm 1975, trao đổi bàn bạc với triết gia Lương Kim Định rằng Hà Đồ Lạc Thư là phẩm vật (do tộc Việt của ta trong Bách Việt cống cho tộc Hán, hoặc bị lấy đi trong khi thua trận, tất cả đưọc khắc trên mai rùa thật lớn như con rùa ở Hồ Gươm.) Sau đó Vua tộc Hán mới “cưòng điệu” lên là có con Long Mã ở sông Hoàng Hà hiện hình để thánh hoá vai trò “thiên tử” và vơ cái công trình tư duy của Lạc Việt này vào làm của kẻ chiến thắng! Tôi chỉ xin trao đổi ở đây như một dấu chấm than (!) và chấm hỏi (?) để các bạn tìm hiểu thêm về văn minh văn hóa cổ đại của dân tộc ta không chỉ dừng lại ở trống Đồng! Tôi nhớ hình như trong một hai quyển sách của triết gia Kim Định có đề cập đến vấn đề này, và hình như cả Yên Tử Cư Sĩ cũng có nghiên cứu liên quan sự việc này. Mong các bạn có thời gian truy cứu. Tôi là đưá con bất hiếu, người dân bất mục, không đủ tài nối chí cha, làm sáng công đức tổ tiên dân tộc, đến cả sách cụ thân tôi viết trưóc 1975, tôi cũng không giữ đưọc. Nay lang bạt kỳ hồ, sống đòi tha phương, mò mẫm theo công cuộc dân chủ, không còn đủ giờ, đủ sức, đủ uyên bác để làm việc này.
Tôi bàn ở đây là cho rõ chuyện thôi, chứ chính ông Trần Trọng Kim đã xác định về tính chất lá cờ rồi! Dẫu là có ít nhiều ngụy biện và biện minh, cũng phải công nhận là kết luận của ông Trần Trọng Kim chí lý. Nhưng việc thất bại không hẳn là vì “tình thế” nhưng nhất định không phải vì lá cờ. Lá cờ chỉ là biểu tưọng chứ không góp phần quan trọng trong việc thực hiện cái “nghĩa lý”, tức chính nghĩa và lý tưỏng công cuộc chung. Cái chính là phải thực hiện cái “nghĩa lý” mà mọi người có trọng trách tuyên dương và theo đuổi! Thế cho nên có bỏ cờ quẻ Ly (Ly lìa tán) để lấy quẻ Càn (Càn bậy chăng??!!) mà cũng có ý nghĩa dịch lý hay ho: “ Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh (Càn: đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền) Cũng chẳng hanh thông chính bền mà lại càn dở, mạt vận từ đầu đến cuối vào năm 1975; rồi những kẻ bây giờ sử dụng, nhân danh nó cũng vẫn cứ làm càn, làm bậy, chỉ vì không thực tâm thi hành đúng theo cái nghĩa lý của đại nghĩa lòng dân: tự do dân chủ! Cho nên tôi xin đưọc kết phần bàn về cờ quẻ Ly bằng cách đảo ngưọc ý lời kết biện luận của ông Trần Trọng Kim là:
Việc thành bại là vì tình thế, trí lực, nhân lực, nhân tâm (thiên thời địa lợi nhân hòa) và ở việc làm cụ thể thực hiện minh chính cái nghĩa lý (chính nghĩa lý tưởng) chứ không phải vì lá cờ. Giả sử dùng lá cờ khác mà hành xử chân chính và thành công trong hoàn cảnh ấy có ai chống đối đuọc gì không?”
Ngay cả lá cờ CSVN, “thành công” mà không hành xử chính đáng, tâm kẻ lãnh đạo không trong sáng thực tâm, thành ý thực hiện cái “nghĩa lý” độc lập tự do ước vọng của dân tộc, mà chỉ lừa bịp tráo trở, và ngay bây giờ vẫn hành xử tồi bại với nhân dân đồng bào, làm băng hoại đất nưóc, thì với hoàn cảnh ấy ai là kẻ có lưong tâm lại không chống đối..Những loại người:
Cực bậy mà lại ghét người chê mình,
rất dở mà lại thích người khen mình;
bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú,
mà thấy người ta không phục lại không bằng lòng.
Thân với kẻ xiểm nịnh, xa cách kẻ can ngăn;
thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê...(Tuân Tử)
Như thế thì dù “ muốn không có ai chống đối” cũng không được.
Nhưng vẫn có một số người “đầu tôm” đã viện dẫn rất gưọng gạo để bảo vệ cờ vàng, rằng dù sao những cái “chính quyền của Bảo Đại làm quốc trưỏng” (Xuân, Tâm, Hinh) cũng có “chính nghĩa”, vì phải chọn cái ít xấu nhất để chống cộng. Vì “chống cộng” mới là mục tiêu chính (sic)!!! Thế thì xin hỏi năm 1954, khi Pháp kéo quân đánh với Việt Minh (ở đây cứ tạm cho là Việt Cộng như những cái “đầu tôm” đó nghĩ quẩn đi) có các đơn vị lính “Việt” dự trận (Tiểu đoàn 5 nhảy dù VN (Bavouan-bataillon parachutiste vietnamien, lính dù VN trong tiểu đoàn dù 1 và 2 –Lê-dương dù (Bataillon Etrangere Parachutiste), tiểu đoàn 1 & 6 Dù thuộc địa (Bataillon parachutiste coloniaux) Tiểu đoàn 2 và 3 Thái (lính từ thượng du Bắc Việt), tiểu đoàn 301 VN)[2][2] cùng chiến tuyến “lằn ranh” vói “đồng minh dân chủ tự do Pháp”; vậy thì những người Việt này là “quốc gia” sát cánh với “đồng minh tự do Pháp” đánh Việt Cộng bảo vệ “tự do dân chủ”, hay họ là tay sai, lính đánh thuê cho thực dân Pháp trong dã tâm tái lập chủ nghĩa thực dân, tái chiếm Việt Nam hầu bóc lột sự trù phú của Việt Nam để vực lại nền kinh tế của mẫu quốc đã kiệt quệ sau thế chiến khi bị Đức chiếm đóng, chống lại ưóc vọng độc lập của nhân dân Việt Nam?
Nếu họ là những người lính của “quốc gia” cùng “đồng minh tự do” Pháp chiến đấu chống “cộng” (thật ra là Việt Minh, những người yêu nưóc) thì tại sao kẻ sống trở thành tưóng lãnh đạo VNCH như Phạm Văn Phú (trong trận ĐBP là trung uý dù Pháp, bị quân dân Việt Nam bắt làm tù binh), còn người chết chẳng ai ghi công tưởng nhớ? Phải chăng có sự tay sai khuất tất? Hay vô ơn bất nhân?
Thật ra cái khuất tất là ở ngay “não trạng cờ vàng, lằn ranh chống cộng” tối dạ -con tôm, lập luận vơ vào nên vơ phải “phẩn thối”. Kẻ kém cỏi u mê ngớ ngẩn đã đành mà ngay cả cái miền Nam bao nhiêu là khoa bảng cũng sợ độc tài Ngụy không dám thẳng lưng mà xác định rằng chiến thắng Điện Biên Phủ là của nhân dân Việt Nam, đưọc xây bằng xưong máu của những người con yêu của tổ quốc anh hùng và bất khuất, mà CSVN chỉ ăn hớt công trạng và phản bội đồng bào sau đó mà thôi. Những não trạng chia phe, chia lằn ranh quốc cộng tăm tối xuẩn động, bất nhân đã giúp thêm cho CSVN có chính nghĩa bằng cách chối bỏ chiến công Điện Biên Phủ và coi như “nhưòng hết” công lao xưong máu của những người Việt Nam yêu nưóc cho đảng CSVN trong chiến tích vĩ đại này!
Tính Bất Lương của cái gọi là chiến dịch vinh danh cờ Vàng
Bảo vệ lá cờ mà mình một thời yêu mến hay gần gủi với nhiều kỷ niệm vui buồn, và vinh danh nó là điều chính đáng, cho nên việc vận động cờ vàng ở Mỹ của người Mỹ gốc Việt trong ý nghĩa giới hạn “di sản của người Mỹ gốc Việt” (the heritage of Vietnamese Ameriacans) thì chẳng có gì đáng bàn cãi. Nhưng cái bất lưong là hư cấu sửa đổi sự thật và nhập nhằng tuyên bố rầm rộ là lá cờ biểu tưọng cho dân tộc đất nưóc Việt Nam, biểu tưọng chính nghĩa đấu tranh, chính nghĩa quốc gia chính thống, biểu tuợng tự do dân chủ v.v là không đúng đắn và gian lận!
1- Lá cờ “Càn” vàng ba sọc đỏ này, theo đúng nguyên nhân, mục đích chào đời của nó như đã trình bày, chưa bao giờ là biểu tượng cho đất nưóc dân tộc Việt Nam, vì nguyện vọng của dân tộc Việt Nam cả.
2- Và cũng theo “hành trạng lịch sử” của nó cho đến lúc bị kéo xuống nhục nhã, thì cũng chưa bao giờ được dùng để tiêu biểu hay phát huy khát vọng tự do dân chủ của dân tộc cả. Chỉ dùng để “chống cộng” cho những nhóm chính trị mà đa số lại rặt là tay sai ngoại bang, độc tài đảo chính quân phiệt mà thôi.
Gian lận bất lương ở chỗ khi vận động với chính giới của Mỹ, thì họ “nhỏ nhẹ khiêm tốn” đúng mức chỉ là “di sản của người Mỹ gốc Việt”. Nhưng khi nói với người đồng hương, vốn nhiệt thành dễ tin, thì lại khoa trưong khuếch đại. Tính bất lương càng rõ khi lẽ ra, nếu chính đáng họ đã phải chính thức bảo vệ “chính nghĩa” của họ bằng những minh định rõ ràng tinh thần văn bản nghị quyết đã ký với chính giói sở tại của Mỹ để đánh bạt đi những “dư luận cưòng điệu sai trái”; nhưng họ tảng lờ xuôi theo “dư luận méo mó” cho đến khi có ai lên tiếng lý giải chính đáng thì họ lại lý sự rằng chúng tôi, ban chủ trương, không nói như thế. Điển hình như vụ nghị quyết “không chào đón” phái đoàn CSVN của thành phố Ga Đần Gô- Ca Li Fo Ni a. Nghị quyết chỉ là “không chào đón”. Nhưng trên nhiều báo chí, cửa miệng chống cộng biến thành “cấm CSVN lai vãng”!!!
Điều này rõ ràng có âm mưu thủ đoạn bất chính. Một lối nhập nhằng ăn cắp niềm tin nhiệt huyết của đồng bào, đồng hương, mà chắc chắn sẽ một lần nữa đưa đến sự hụt hẫng chán nản như những cao trào khoa trương phục quốc đã trôi qua!
Một lần nữa những người chủ trương đã lợi dụng khuyết điểm vọng ngoại của người xa xứ để dùng hình ảnh “nưóc Mỹ, chính giới Mỹ” đóng ấn dấu công nhận “tính chính đáng” của lá cờ !!! Với hy vọng “sự xác nhận tính chính đáng” này của Mỹ lan xa đến trong nưóc Việt nam!!! (Mỹ đã công nhận cơ đấy) Ôi cái thúng không thể úp đưọc con voi!!! Làm sao mà họ có thể đạt đưọc ý nguyện nhơ bẩn này bằng hư cấu bất chính như thế!
Họ đã chỉ vì mục tiêu chính trị ngắn hạn trưóc mắt mà đã lợi dụng lòng nhiệt huyết cố quốc của người gốc Việt làm chuyện tai hại. Tai hại cho công cuộc dân chủ hóa đã đành mà tai hại trong hưóng dẫn gìói trẻ ở hải ngoại, vốn đã bất hạnh vì thiếu thốn tình tự, hiểu biết về dân tộc tổ tiên, hiểu sai lạc về cận sử nưóc nhà. Hiểu sai về nỗi đau chung của dân tộc ViệtNam. Chẳng hạn như song song “bổ túc thêm râu” cho chiến dịch lá cờ và lằn ranh và để tạo thêm chân cho rắn bằng những hư chứng về lich sử lá cờ như bài viết của ông Sài nào đó đưọc đăng tải trên mạng liên-tín và đưọc các nhóm “chống cộng tố cộng” sử dụng như “tài liệu chân lý cơ bản!”. Tôi cũng xin đưọc bàn vào đây đôi điều về những hư cấu ấu trĩ này.
Các quốc gia Á Châu theo Khổng Mạnh như Việt Nam, Trung Hoa, Hàn quốc…không có ý niệm về quốc kỳ trong thế kỷ 19. Các loại cờ được dùng là cờ điều quân, cờ của một đạo quân (chẳng hạn Bát kỳ của triều đình Mãn Thanh..-Việt kiều xem phim bộ Lộc đỉnh ký đã thuộc lòng!!!), cờ của triều đại hay các viên chức lớn (hiệu kỳ, soái kỳ, lệnh kỳ)… Cho nên cái lá cờ “đầu tiên” Long Tinh (thật ra không phải là cờ đầu tiên trong chiều dài của các triều đại Việt Nam) chỉ là quân kỳ, soái kỳ hay trưóng kỳ mà các bạn mê phim bộ Hồng công Đài loan, Trung quốc v.v vẫn hay thấy trong các trận giáp chiến nhốn nháo a tầu phù!!! Chứ không phải vưong kỳ hay đế kỳ. Vì thưòng cờ của Vua (Triều đại) vẫn hay có lệ viết rõ chữ đĩnh đạc uy nghi , như cờ của vua Quang Trung Hoàng Đế khi tiến quân tái chiếm thành Thăng Long vào năm 1789. Chứ xếp Long Tinh vào hàng quốc kỳ thì ……!!! (Không có chữ để diễn đạt não trạng này!)
Đến cái “chứng cớ” lá cờ thứ hai “Đại Nam” thì hết thuốc chữa!!! Dù cũng đã biết vận dụng lệ viết chữ vào cờ của thời quân chủ, nhưng lại tối dạ đến độ phỉ báng văn hoá tư tưởng tiền nhân!
Xã hội quân chủ nho giáo đặc biệt là triều Nguyễn trọng Hán văn và bắt chước Thanh Nho (không như Quang Trung Hoàng Đế, Ngài trọng chữ Nôm vá có tính dân tộc rất cao) thì nếu là lá cờ của triều đại thì ắt chữ phải viết một cách ngay thẳng mạnh dạn và rõ ràng minh bạch, chưa nói là bút pháp phải cực kỳ tinh xảo để viết lên đưọc sự đưòng bệ hiên ngang, uy nghi, kỳ vĩ của tinh thần tôn quân trọng quốc, tư thế của một vương quốc tự chủ. Chứ sao lại viết nguệch ngoạc, đã thiếu nét lại nghiêng ngả “chổng mông vào nhau “tục tĩu mất dạy” như thế? Các cụ nhà mình có sai điều gì thì sai, chứ nhất định không có cái tinh thần thập thò bí ẩn, khuất tất trong việc quân quốc trọng sự; ngay cả khi viết cờ làm khởi nghĩa bí mật trong rừng. Không kể đến một điểm mà ngưòi ngu dốt kém cỏi như tôi cũng biết các cụ mình xưa chữ Nho viết chữ từ phải qua trái, chứ không viết từ trái qua phải như bây giờ, nghĩa là lẽ ra chữ Nam phải ở bên trái -rồi chữ Đại ở bên phải mới đúng cách cơ đấy!!!
Đó là chưa nói trong sáu (6) thư pháp (Triện, Lệ, Đại, Chân, Hành, Thảo) thì cái chữ Đại Nam này cũng không ra con giáp nào cả! Nét bút lông cũng không phải, mà nét bút tre cũng không giống.. Nó có giống như lối khắc chữ, nhưng lại vụng về của một đứa trẻ con nghịch bẩn trong cái lối khắc mà tôi đã gặp nơi tấm khánh treo tại gác chuông ở chùa Quỳnh (Đông Triều) do các cán bộ văn hóa nhà nưóc CHXHCNVN làm ra bằng bột đá rẻ tiền để thế cho cái khánh thật đã bị Tây hay Tầu lấy mất!
Thật ra các cụ mình cũng có lối dùng ẩn ngữ rất tài tình trong thông tin, nhưng là dùng tâm ý hoặc chiết tự để trao đổi mật với nhau thôi chứ cũng chẳng bao giờ “ẩn” trong biểu tưọng đất nước hay vưong triều, vốn chủ đích tuyên dương rộng mở công khai cả. Các cụ mình khinh cái lối bò sát thập thò trí trá. Bậc quân vương, người quân tử phải đưòng đưòng chính chính, uy vũ hiên ngang, đưòng bệ chứ không nghiêng ngả chổng mông như phường tiểu nhân hèn hạ.
Mà hỏi lấy chứng cớ ở đâu thì cũng chỉ là bảo của một thằng mũi lõ nào nó tìm đưọc (???!!!) mà lại ở một trang liên-tín cũng chẳng có hình chụp “khai quật” gì cả!!! Gìòi ạ! lại khai thác cái não trạng mặc cảm tự ti, vọng ngoại: hễ cứ mũi lõ nói là đúng! Tôi mò vào cái trang này, đọc rồi mới xét cái lối xếp đặt hành văn mới nghi cái thằng “Tây” đóng góp trong mục này ắt phải mũi tẹt và có cái não trạng cờ vàng! Thôi không bàn nữa! phí cả giờ! Với những não trạng như vậy thì nay mai sợ rằng sẽ có sự “khai quật” tìm ra được “cờ vàng” đã có đưọc khắc bên trong trống đồng Ngọc Lũ mà lại đưọc trạm bằng vàng lá ròng!!!
Tóm lại, theo cách nói của cái cô ca sĩ cải lương nhí nhảnh dễ thưong gì đó trong chương trình nhạc do Nguyễn Ngọc Ngạn làm quản trò, thì với lá “quốc kỳ” Đại Nam kiểu ấy thì nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam, hay Tầu Tây mũi lõ nhìn vào “hiểu chết liền!”
Chưa hết, cái não trạng “cờ vàng chính thống” đã gieo vào đầu gìói trẻ hải ngoại một cách rất bệnh hoạn. Khi tôi còn lo việc riêng ở Mỹ, tôi có đến gặp hai đứa cháu từ Úc qua tham dự đại hội thế giới sinh viên Việt Nam tại quận Cam, nơi có cái tưọng đài “Mỹ Việt không nhìn mặt nhau” (Tượng hai người lính một to cao, một nhỏ thấp, mỗi người nhìn một hưóng- Tôi ngắm cái tưọng mà thấy đau buồn, vì nhìn mãi mà “hiểu chết liền!”) Tôi đưọc các cháu tặng một tuyển tập có các bài viết bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Tôi muốn rớt nưóc mắt! Vì khi nhìn cái hình bìa có vẽ cái lá cờ vàng ba sọc đỏ “quyện” vào với lá cờ Mỹ, nói cho đẹp mặt thì như cặp nhân tình dị chủng, hay nói cho đúng thì như một cô gái Việt Nam cần tiền đang làm chuyện “hiểu sống liền” thưòng thấy ở đất Mỹ! Chiều tối hôm ấy tôi chở hai cô cháu sinh viên và bạn của các cháu đi uống cà phê, tôi có đưa việc này ra trao đổi. Tôi có nói rằng giả như các anh chị em sinh viên Việt ở Pháp, ở Úc, ở Hàn, ở Nga v.v mà mỗi nơi vẽ cái cờ vàng ba soc đỏ quyện vào thắm thiết với các lá cờ mỗi nơi như vậy thì hiểu như thế nào đây? Các cháu tôi lặng yên, còn tôi thì thở dài!
Vấn đề không còn là “hiểu chết liền” nữa, mà hiểu là nhục liền! Cái lá cờ “di sản” mà họ trân quí ấy đã chỉ vì óc tự ti vọng ngoại hàm ơn vô lối, họ đã biến nó thành hình ảnh một cô gái Việt Nam ở Đông Hà đứng đầu ghe tuột quần chỉ vào cái vốn giời cho để mời gọi lính đồng minh “hưởng thụ giao tình hữu nghị” mà nhà văn Phan Nhật Nam đã kể trong “Dấu Binh Lửa”[3][3]
Nếu vẽ như vậy chỉ vì lá cờ là biểu tượng của người Mỹ gốc Việt thì hiểu được (mà não trạng đúng là như vậy thôi). Nhưng khi đã dám tuyên bố lá cờ lên hàng hải ngoại thì không ổn nữa! Vì hải ngoại đâu chỉ có nghĩa là ở Mỹ! Và giả thiết rằng lá cờ là của “dân tộc” thì lại càng khổ ải!!! Giời ạ..!!!
Có những điều ĐÚNG và CHÍNH ĐÁNG ở bình diện một CÁ NHÂN, một PHE NHÓM, một CỘNG ĐỒNG.. nhưng sẽ rất SAI, và mang tính ÁP ĐẶT, BẠO NGƯỢC, NHỤC MẠ, nếu đem đặt ở phương diện cho cả quốc gia dân tộc.
.. cá nhân mỗi chúng ta muốn mang ơn ai, ca ngợi ai, thánh hoá ai.. đó là quyền cuả mỗi người. Nhưng khi áp đặt rằng Nhân Dân Việt Nam mang ơn nhân dân Mỹ, Lính Mỹ trong cuộc chiến tương tàn vừa qua thì đó chính là thái độ áp đặt bạo ngược đi từ lề lối suy nghĩ phe phái riêng tư kém hiểu biết sâu xa về sự thật của bản chất bang giao quốc tế cũng như bản chất của cuộc chiến tương tàn VN.
Tôi chỉ xin các bạn trẻ Việt Nam trong ngoài hãy cẩn thận với mọi thông tin trong một tình trạng cô đọng một chiều như thể chế độc tài đảng trị ở trong nước, và thể-chế -độc-tài-chống-cộng-trị ở ngoài này. Xin đồng bào và các bạn trẻ hãy nhớ lời nhắc nhở của ông Trần Trọng Kim thuở trưóc:
“…. Vậy mà ở xa nghe nói, tưởng là các ông ấy có tổ chức, có thế lực, kỳ thực chẳng có gì đáng kể. Cũng như là sau tôi thấy những người Cách Mệnh Việt Nam ta ở bên Tầu, nghe tuyên truyền thì tưởng là họ có cơ sở chắc chắn, lúc biết rõ sự thực, thật là buồn. Tôi kể ra đây cốt để người ta biết rõ sự thực, đừng có nghe nhảm tin lầm…”[4][4]
Bây giờ xin đưọc lạm bàn đến chiến dịch “vinh danh cờ vàng di sản của người Mỹ gốc Việt chân chính”. Thành thật mà nói, tôi hiểu và trân quí tấm lòng cố quốc trong sáng và nhiệt tâm đơn giản của đồng bào mình, dù họ bở bất cứ nơi nào cũng hưóng lòng mình về tổ quốc bên kia bờ đại dương. Chính mắt tôi đã thấy những đồng bào mình ở quận Cam, đóng cửa hiệu để vác cờ lái xe 6-7 giờ đến tận Xăng Phăng Si Cô để vận động cờ vàng! Đó là chưa nói đến bỏ tiền túi đổ xăng ăn uống v.v
Ví như cao trào này chỉ tập trung mục tiêu, hay ít ra đưa thêm vào trong nghị quyết là các thành phố, tiều bang Mỹ chính thức lên tiếng ủng hộ tinh thần đấu tranh của người Mỹ gốc Việt cùng đồng bào trong nưóc trong tinh thần đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do của những chiến sĩ dân chủ; và lên án hành động vi phạm nhân quyền của CSVN đối với những người đang đấu tranh ôn hòa cho giá trị căn bản của nhân loại. Như vậy nó lại rất phù hợp với tinh thần giá trị của hiến pháp Mỹ, như thế những nghị quyết này sẽ có giá trị và sức đẩy trưòng kỳ và ảnh huởng rất mạnh ngay ở chính trưòng Mỹ đến tận trong nưóc Việt Nam. Như vậy là ở hải ngoại đã đưa thêm một tảng đá vững chắc cho các chiến sĩ dân chủ tại Việt Nam đứng lên tranh đấu. Hơn thế nữa những nghị quyết như vậy sẽ thúc đẩy thêm sự hiểu biết về nhận thức tư duy trong ý niệm dân chủ nhân quyền tại Việt Nam. Các chiến sĩ dân chủ và đồng bào mình đang đáu tranh trong nưóc khi đọc những nghị quyết có tinh thần xác quyết như vậy chắc sẽ ấm lòng và trân rọng tấm lòng của đồng bào xa xứ mà vẫn không quên đất nưóc. Họ sẽ vững lòng hơn trong đấu tranh hiểm nguy vì họ biết sau lưng họ là những cánh tay thật dài của đồng bào khắp nơi đang chống lưng cho họ..
Nhưng thật là buồn, và quá phí phạm! Những tấm lòng nhiệt thành ấy, công sức hy sinh ấy chỉ đạt đưọc sự thừa nhận “lá cờ di sản” của người di tản trên đất Mỹ! Chính khách Mỹ mua phiếu người gốc Việt rẻ quá!
Không hiểu khi đọc và hiểu đưọc tinh thần nghị quyết thật sự đã ký kết để vinh danh di sản cờ vàng của những Mỹ gốc Việt đến từ miền Nam Việt Nam, các chiến sĩ dân chủ có thấy bơ vơ buồn bã hay không? Tôi chắc là không thấy bơ vơ, vì anh chị em dân chủ trong nưóc đã và đang có 87 triệu đồng bào! Còn buồn thì tôi chắc có tí chút, vì dẫu sao, dù không nặng nề, nhưng mục tiêu chính đáng cao cả vì dân chủ tự do đã bị lạm dụng một cách thập thò buồn cưòi!
Quả thật, khi trong nưóc đồng bào đang cùng các chiến sĩ dân chủ chân chính đang đem chính thân xác họ, sự an nguy của gia đình họ để đấu tranh dân chủ tự do, thì ở ngoài này, cũng nhân danh tự do dân chủ, não trạng cờ vàng của những nhóm chống cộng vì hận thù quá khứ đã biến lá cờ vàng thành bức tưòng ngăn chia cách biệt giữa những người Việt Nam với nhau. Nó không còn đơn thuần là biểu tượng nữa, mà là hố ngăn cách, vũ khí khủng bố tinh thần, và vũ khí trấn áp bịt miệng tự do ngôn luận. Như vậy nó đã trở thành gánh nặng cản trở sự đoàn kết dân tộc cần thiết, ít nhất là ở bên ngoài đất nưóc Việt Nam, để hòa mình vào với đồng bào trong nưóc trong tiến trình đấu tranh dân chủ hóa hôm nay và xây dựng dân chủ phát triển đất nưóc trong tương lai.
_____________
[1][1] Trần Trọng Kim, “Một Cơn Gió Bụi” Vĩnh Sơn 1969, tr60-61
[2][2] Vietnam Airborne-OSPREY ELITE SERIES n#29, OSPREY Publishing-London
[3][3] Phan Nhật Nam, Dấu Binh Lửa, Đại Ngã, 1974
[4][4] Trần Trọng Kim, “Một Cơn Gió Bụi” Vĩnh Sơn 1969, tr 36.
Tính Xấc Láo, Tối Dạ, Nhỏ Hẹp Của Phong Trào Xác Định Lằn Ranh Quốc Cộng.
Cách đây gần hai năm, khi tôi đang ở thăm nước Mỹ nhân có tí việc riêng, tôi đã biết có một số ngưòi, đa số là những nguời phục vụ trong ngành quân cán chính của chế độ Ngụy VNCH họp nhau lại để “xác định lằn ranhquốc cộng”. Tôi có viết một bài về vấn đề này. Sau đó một đài phát thanh việt ngữ ở Mỹ có mời tôi trao đổi với một hai nhân vật cựu viên chức chế độ Ngụy VNCH trước năm 1975.
Khi đã thành não trạng hàm ơn chứa oán với những định kiến chính trị rồi, tất khó bỏ, cho dù có dẫn chứng cách nào đi nữa. Mặc cảm lằn ranh đã là một thảm họa cho dân tộc Việt Nam trong suốt thời kỳ kháng Pháp cận đại, rồi sau đó kéo dài cho đến năm 1975, khi đảng CSVN thống nhất đất nước.
Lằn Ranh Quốc Cộng.
Khi toàn thể nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta không thấy lằn ranh quốc cộngnày. Cho đến khi tình hình chính trị thế giói rơi vào cuộc chiến tranh lạnh sau cuộc cách mạng cộng sản vào tháng 10 -1917 ở Nga, và trở nên rõ rệt khi Sít ta lin lên cầm quyền với chủ trương bành trưóng, cao điểm là vào thời kỳ chấm dứt thế chiến thứ hai, khi “lằn ranh” giữa phe Phát Xít và phe thực-dân-đế-quốc-tư-bản chấm dứt.
Tôi xin mở một ghi chú ở đây để giúp một số lớn những độc giả không có thời gian nghiên cứu sử thế giới cận đại hiểu rõ khuôn mặt chính trị thế giới đã thay mầu đổi dạng như thế nào. Bởi vì phần nhiều “sách lịch sử” mà đa số chúng ta “bị đọc” ngày hôm nay, được viết bởi những kẻ thắng trận. Phe đếquốc thực dân Âu Mỹ (Anh Mỹ, Pháp, Nga v.v) thắng Phát xít (Đức, Ý, Nhật), và họ viết sử có lợi cho họ, lập tòa án xử tử những kẻ phát-xít vi phạm nhân quyền.. Để rồi từ những tên thực dân khát máu vi phạm, chà đạp chủ quyền nhân quyền của các dân tộc khác, trong đó có Việt Nam của chúng ta, biến thành “đồng minh yêu tự do có “chính nghĩa giải phóng nhân loại.” Bây giờ phim ảnh lên án, trưng bày tội ác trong mấy năm của phát xít thì nhan nhản khắp nơi, ngay trong cả hệ thống giáo dục trẻ em. Cho nên không mấy ai còn nhớ môt sự thật rằng chính những tên thực dân đế quốc đó, chế độ thực dân đếquốc đó (Anh Mỹ, Pháp, Nga, Hoà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha v.v) tàn ác hơn, kéo lâu dài hơn (hàng trăm năm), giết hại nhiều nhân mạng hơn, gây nhiều thống khổ hơn cho nhiều dân tộc so với tội ác của Phát xít. Mà thật ra cũng chính vì xung đột quyền lợi giữa đám thực dân đế quốc với nhau (Anh Mỹ Pháp Nga v.v sau năm 1917 đã áp chế đế quốc thực dân Đức, Áo; và Anh Mỹ đã dồn ép thực dân đếquốc Nhật Ý vào con đưòng Phát xít phe “trục”.. Chẳng có tòa án quốc tế nào xử tội những tên trùm thực dân như Churchil, De Gaule, hay các chế độ thực dân cả.. Nguợc lại hàng năm còn được ghi công tưởng niệm là những vĩ nhân, và binh lính đế quốc thực dân còn được ca ngợi là đã hy sinh cho "tự docủa thế giới". Dù sự thật lịch sử Viêt Nam, Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương v.v đã cho thấy các dân tộc bị trị phải đổ máu xương của chính họ để chống lại "đồng minh yêu tự do" để có tự do độc lập cho chínhquốc gia dân tộc họ; và vô hình chung phe phát xít đã gián tiếp giúp các dân tộc bị trị trong tiến trình này...
Tại Việt Nam ưóc vọng độc lập dân tộc của nhân dân được thể hiện qua phong trào Việt Minh với một sự đoàn kết thật đẹp và chính đáng được thể hiện qua chính phủ liên hiệp năm 1945 (gồm 16 nhân vật đứng đầu nước, do Bảo Đại làm cố vấn tối cao). Nhưng thật khốn nạn! Não trạng quyền bính tư lợi đảng phái của những ngưòi lãnh đạo trong chính phủ đoàn kết dân tộc liên hiệp này đã sô đẩy đất nuớc vào vòng chia cắt của “lằn ranh” Nga -Mỹ. Quyền lợi cao quí của đất nước, khát vọng của nhân dân: Độc lập để cùng nhau xây dựng dân chủ tự do- đã bị hy sinh khi Hồ Chí Minh lòi đuôi tay sai cộng sản, âm mưu cùng ngoại bang ám sát thủ tiêu đồng bào chiến hữu kháng Pháp- phe không cộng sản, hục hặc tranh quyền ám sát nhau (Đại Việt, Duy Dân, QuốcDân Đảng)- rơi vào thế yếu, một số ngả theo Pháp, rồi theo Mỹ để lập “chính phủ”. “Lằn ranh “quốc cộng” được vạch ra từ đây! Và cũng từ đây, ưóc vọng độc lập tự do dân chủ của dân tộc khốn khó nhưng oai hùng này đã bị chôn vùi vào quên lãng; trong khi sinh mạng tài sản, tiềm lực của quốc gia dân tộc bị phí phạm trong suốt 30 năm trời tưong tàn đẫm máu dưới sự điều động của hai phe ngoại bang (Nga-Hoa & Anh Mỹ) mang hai biển hiệu đẹp đẽ sáng ngời “Tiền đồn Xã hội Chủ Nghĩa” (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà-miền Bắc) và “Tiền Đồn Thế Giói Tự Do” (Việt Nam Cộng Hoà-miền Nam). Đứa nào cũng đem chữ Việt Nam, đem Dân Chủ, đemCộng Hòa ra để thỏa mãn não trạng quyền bính, tinh thần tay sai ngoại bang, lừa bịp, ăn cướp niềm tin, khát vọng và xưong máu của nhân dân Việt Nam! Cuộc chiến tưong tàn tay sai phi nghĩa này đã chấm dứt vào ngày 30-4-1975. Và lằn ranh “quốc cộng” cũng đã chấm dứt!
Với tôi, và với những ngưòi tôi may mắn được gặp gõ ở trong nước cũng như ở ngoài nước, thì đảng CSVN thống nhất đất nước là một sự kiện tất nhiên không thể chối bỏ. Và đây là một sự kiện tốt, hay nói cách khác là ít xấu hơn là kéo dài thêm cuộc chiến tương tàn suốt 20 năm (1954-1975).
Nhưng để sòng phẳng hơn, trước khi trình bày tiếp vấn đề não trạng cờ vàng và mặc cảm lằn ranh quốc cộng, tôi xin phép được phân giải để trả lời những lập luận cho rằng nếu phe Ngụy VNCH thắng phe Ngụy CSVN, thì tự nó sẽ đi dần đến tự do dân chủ như Đại Hàn (sic)!
Trước hết phải xác định rằng không có tên độc tài nào, não trạng quyền bính nào tự nguyện rút lui nếu không có sức ép đấu tranh phản kháng của quần chúng, vì đây là bản chất của quyền lực (Power corrupts, and absolute power corrupts abosolutely.) Ngay như trong thể chế “dân chủ Mỹ” khi Ních- Xơn đã mưòi mươi phạm tội cũng còn cố bám víu quyền lực cho đến khi bị đàn hặc truất phế!
Và lịch sử cận đại, hiện trạng Ia Rắc, cũng xác minh cho đến nay chính sách ngoại giao của đế quốc Mỹ (Tư bản chuyên chế) cũng chỉ buôn bán lá bài tự do dân chủ, và nhân quyền , và ủng hộ, giữ vững những chế độ độc tài tay sai cho quyền lợi của họ bằng mọi giá, kể cả tàn sát thường dân vô tội (Xin tham khảo thêm- Why Do People Hate America? Ziauddin Sardar, Merryl Wyn Davies 2002)
Như vậy giả thiết rằng có phép lạ để cho phe Ngụy VNCH thắng trận bằng bom đạn Mỹ, tiền Mỹ và thống nhất đất nước, thì ngay hôm nay đây nhân dân Việt Nam cũng phải đang đấu tranh, như chúng ta đang tranh đấu chống lại sự độc tài đảng trị của đảng CSVN; và các chiến sĩ dân chủ chân chính cũng sẽ phải đang bị tù tội đổ máu để dân chủ hóa đất nước thật sự, như Nam Dưong, Đại Hàn, Chi Lê v.v đã kinh qua!
Trở lại vấn đề của chúng ta, Tôi nhận định thống nhất đất nước là tốt, vì đó là một trong những ưóc mơ lớn củadân tộc Việt Nam sau những biến cố chia cắt trong lịch sử, như loạn mưòi hai sứ, Trịnh Nguyễn, rồi Quốc Cộng20 năm ròng rã binh lửa đạn bom! Và như thế , Ngụy VNCH hay Ngụy CSVN thống nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh tương tàn là điều tốt! Hơn nữa nó tốt vì cái lằn ranh quốc cộng đã biến mất, và tình hình Việt Nam đã chuyển qua một hoàn cảnh mới: toàn dân là một chống độc tài đòi tự do dân chủ bằng đấu tranh vận động chính trị. Đăc biệt là ngày hôm nay, ở thề kỷ thứ 21, đối với 70% dân số Việt Nam trong nước ở tuổi từ 35 trở xuống, một lằn ranh mới đã được đặt ra: Lằn ranh giữa nhân dân Việt Nam, những ngưòi mang khát vọng dân chủ tự do nhân quyền và tất cả các cơ chế cầm quyền độc tài hay tập quyền chuyên chế, mà hiện nay làcủa đảng Ngụy CSVN.
Chúng ta đã và đang thấy đủ mọi thành phần lứa tuổi trong xã hội Việt Nam có quá khứ Nam Bắc khác nhau đều đứng lên vạch lằn ranh giữa dân chủ tự do và cơ chế độc tài thối nát bán nước buôn dân.
Tự Do hay là Chết! Chứ chẳng còn lằn ranh nào khác nữa!
Chính vì thế mà tôi và anh chị em Duy Việt chủ trưong không chống Cộng. Bởi vì:
1- Chúng tôi không ủng hộ Ngụy độc tài quân phiệt VNCH hay cựu Ngụy tự phong “dân chủ tự do” cũng như chúng tôi không ủng hộ Ngụy CSVN hoặc kể cả cựu Ngụy CSVN tự phong dân chủ tự do: những ngưòi miệng nói dân chủ tự do, công bằng sự thật, mà vẫn tung hô khen ngợi hư cấu “Bác Hồ”, tung hô khen ngợi Đảng, tung hô khen ngợi hư cấu “Cụ Diệm”, tung hô khen ngợi VNCH!
2-Duy Việt không chống cộng vì yêu và trân quí cơ chế dân chủ tự do ngôn luận tư duy, mà chủ nghĩa cộng sản , đúng hay sai, cũng là một hệ tư tuởng được quyền thảo luận nghiên cứu khai triển công khai như tất cả các hệ tư tưỏng lý thuyết khác: có theo và có chống.
3-Đảng CSVN cũng chỉ là một đảng chính trị đang nắm quyền với những con ngưòi Việt Nam, mà nếu như đất nước thật sự có dân chủ tự do bình đẳng, thì họ cũng có quyền bình đẳng sinh hoạt, hoạt động tranh cử như những đảng phái khác trong cơ chế dân chủ tự do. Vấn đề là cơ chế độc tài đảng trị của họ cần phải được tháo gỡ và giải thể tuyệt đối để thiết lập một cơ chế thật sự tự do dân chủ cho xã hội, đất nước, và cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Những kẻ có tội nặng nề với nhân dân sẽ bị pháp luật của nước Việt nam dân chủ xử trí theo tinh thần công bằng pháp trị. Như vậy giả thiết Nguyễn Văn Thiệu còn sống và các nhân sự của hai chế độ Ngụy VNCH cũng sẽ bị xét xử nếu có tội với nhân dân đất nước trong tinh thần và nguyên tắc này. Vì đây là cuộc đấu tranh của toàn dân Việt Nam vì tự do dân chủ, không phải là cuộc thanh toán phe đảng chính trị dành quyền củahận thù quá khứ!
Như vậy, ngày hôm nay cái lằn ranh thật sự hiện hữu mà chúng ta phải cần phải tuyệt đối bảo vệ và sống chết gìn giữ cho nó còn mãi mãi, là lằn ranh giữa nhũng người thật sự yêu dân chủ tự do pháp trị và những não trạng phi dân chủ tự do, dù dưới bất cứ hình thức nào ! Vì đấu tranh dân chủ tự do là một tiến trình miên viễn của xã hội con ngưòi chống lại bản chất thưòng trực của quyền lực.
Cũng chính trong tinh thần đấu tranh dân chủ hoá của chúng ta, mà vấn đề cấp bách hôm nay chính là xây dựng sự hiểu biết về dân chủ, và xiển dương lòng yêu quí nhân quyền, tôn trọng tự do dân chủ thật sự nơi mỗi con ngưòi Việt Nam, bất kể trong ngoài, quá khứ quốc cộng! Vấn đề là làm sao để CSVN không còn có thể khống chế ngưòi dân Việt Nam trong nước, không thể ngăn cản được làn sóng dân chủ trong nước nữa. Lúc đó đất nước sẽ có dân chủ tự do! Ðộc tài quân phiệt, gia đình trị, đảng trị sẽ chẳng còn đất sống!
Ðây mới chính là giải pháp và cũng là mối ưu tư hàng đầu của nhũng con ngưòi Việt Nam chân chính, thật sự yêu nước, đang thật sự dấn thân cho công cuộc tự do, dân chủ hóa Việt Nam.
Thêm một điều buồn cưòi nữa là não trạng này, họ tưỏng họ là Việt Nam chính thống có đủ lực làm chuyện lấp đá vá trời nữa cơ! Họ nói tôi mà “chống cộng” như vậy (nghĩa là không chống cộng như họ) thì chẳng được gì, vì không có ai ủng hộ, chống một mình!!!! Khổ thật! Họ chỉ là một dúm gốc Việt, con lai hàng đàn, tên họ đủ thứ tiếng, đủ loại rải rác khắp nơi! Họ quên là ở trong nước Việt nam có hơn 80 triệu ngưòi. Và tôi, cũng như các chiến sĩ dân chủ cần sự cảm thông và ủng hộ của đồng bào mình là chính.. Đồng bào trong nước không ủng hộ mới đáng sợ! mới thật sự cô đơn một mình dù có nhiều kẻ gốc Việt bên cạnh! Đơn giản 1000 ngưòi trong nước biểu tình chắc chắn sẽ mạnh và có hiệu quả gấp 1 triệu lần 3 triệu ngưòi gốc Viêt biểu tình khắp nơi!!! Không hiểu được điều cơ bản này thì chết đi! Sống chật đất!
Nhưng thật là buồn… nôn và buồn cưòi, vì hôm nay trong nước Việt nam của chúng ta, lằn ranh “quốc cộng” đã bị lấp kín đã hơn 30 năm, thì ở ngoài Việt Nam vẫn có những kẻ mộng du trong mặc cảm quá khứ, tự phongdân chủ, mượn đất ngưòi lui cui vẽ lại lằn ranh quốc cộng!
Nó buồn cưòi ở chỗ quốc gia chủ nhà không vẽ lằn ranh “quốc cộng” mà họ đã vẽ rõ lằn ranh dân chủ và độc tài ngay trong hiến pháp của họ, trong sinh hoạt của họ, mà những kẻ ăn nhờ ở đậu lại lui cui làm chuyện ngược đời!
Ngược đời cũng chẳng tai hại vì cũng là quyền tự do, nhưng nó đưa đến thái độ xấc láo thì lại cần phải nói. Như trong trưòng hợp mói đây mà tôi có theo dõi, là có một số người ngây thơ có đề nghị về việc đồng phất phới hai lá cờ, đề nghị này hình như cũng tương tự như sự mơ ưóc nhỏ rất khoan dung đoàn kết dân tộc, công nhận xưong máu đóng góp cho đất nước của những con ngưòi cả hai bên chiến tuyến, và thật hữu tình, hữu lý, dù cá nhân tôi vẫn cho là chưa tốt hẳn (Đấy, đã bảo tôi cũng ngưọc đời ngưọc ngạo lắm cơ mà! Ai hiểu chết liền!).
Thế nhưng có những tên ở vào thế kẹt cờ vàng, nhất định không chịu đã đành, còn đòi lên án hạch hỏi “sô đẩy” người ta qua “lằn ranh” về phía CSVN!!! Khổ thật! Họ tự phong mình như là đại diện của phe “chính giáo” có quyền phán xét ai đúng ai sai, nắm túm ai vào lằn ranh nào, bên nào thỏa thích!!! Nhưng mà nếu họ được như “chính phái” Nhạc Bất Quần cũng còn khá, ít ra Bất Quần còn có khả năng võ công thật sự của “chưởng môn”, còn họ là gì?
Tôi không rõ cấp bậc, chức vụ cũ trong thời quân phiệt Ngụy VNCH của họ, nhưng đa số chắc chắn không phải cấp tưóng, vì nếu là tưóng với não trạng như thế chắc cũng đã hung hăng lập một đôi quân phục quốc với quân số 100,000 ngàn ở biên thùy Đông Dưong!
Họ cũng như bao nhiêu não trạng cờ vàng, mặc cảm lằn ranh, mang đầy tính “chã” (em “chã”, cách nói của cậu “con cầu tự”, con bà phán Đoan- trong tiểu thuyết Số Đỏ- Vũ Trọng Phụng!) Có nghĩa là họ quan niệm một cách rất láu cá, đầu tôm rằng bất cứ ai, cứ hễ sinh ra ở miền Nam hoặc ra đi từ miền Nam, hoặc có giây mơ rễ má, hoặc phục vụ trong quân cán chính của Ngụy VNCH, thì đưong nhiên là “chiến sĩ dân chủ tự do” với chính nghĩa sáng ngời hơi Mỹ! Mà không cần dấn thân đấu tranh vì dân chủ ngày nào cả!
Họ, thật ra bất quá chỉ có quá trình phục vụ cho chế độ độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu, mà nếu có bị đi tù của CSVN, thì cũng chỉ vì ông là cán bộ phục vụ cho chế độ Ngụy VNCH và đi tị nạn CSVN ở Mỹ thôi, chứ họ có ý thức dân chủ tự do đâu? Bởi nếu có ý thức dân chủ tự do, thì đáng lẽ họ đã có tiếng nói cho tư tưỏng dân chủ ngay từ trong nước trước năm 1975, ít ra dưói dạng thức viết. Và khi ở Mỹ họ chỉ đấu tranh chống cộngbằng mồm, tiếp nối nghiệp vụ cũ của họ thôi!!! (Nghe nói họ thuộc Chiến Tranh Chính Trị!!! Hèn gì thua lọt xuống biển) Chứ họ lấy tư cách gì mà đặt để lằn ranh cho một ngưòi đấu tranh dân chủ thật sự và trực diện với chế độ CSVN , bị tù tội vì lên tiếng dân chủ tự do? Nếu chỉ phê bình đề góp ý nghị thì bình thưòng, nhưng cầm lá cờ Vàng ba sọc với ám ảnh lằn ranh cũ kỹ mà “sô đẩy chụp mũ” ngưòi đấu tranh dân chủ kiểu mộng du thì thật là lố bịch trẻ con. Đừng dùng lá cờ như là một chuẩn mực cơ bản để xác nhận tư thế và giá trị dân chủ củangưòi khác. Nó chỉ làm cho lá cờ của phe các ông thêm ô uế và mất hết hẳn cái ý nghĩa khiêm tốn mà những ngưòi nằm xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 đã tạo cho nó! Buồn một điều là những ngưòi này vẫn lui cui vạch vẽ lằn ranh đã hẳn, mà bây giờ còn có những ông “khoa bảng nhân quyền” cũng lầm lũi nối đuôi theo cầm sơn cầm cọ cho những ngưòi hì hục lằn ranh, thì quả là vận nước…Mỹ mạt thật rồi!!! Mỹ chứa một đống cặn bã mà không biết! Hay biết mà lờ! Chứ đất nước, dân tộc Việt Nam không có trách nhiệm với những kẻ này nữa, và cũng không sứt mẻ gì! Tôi nghĩ những ngưòi dấn thân thật sự, không nên để tâm những lời lẽ của những não trạng này.
Hệ quả bất nhân của Não Trạng Cờ Vàng, Cò Đỏ Lằn Ranh Quốc Cộng.
Sở dĩ tôi nói đề nghị rằng cái vụ “cờ vàng gần với cờ đỏ” chưa được tốt đẹp là vì cái não trạng cờ quạt lằn ranhnó khốn nạn, nó sinh ra nhiều đồi bại bất nhân trong quá khứ và đang kéo dài đến bây giờ. Có lằn ranh, có lá cờ thì có quyền làm đủ mọi thứ..tồi bại..kể cả xúi dục con em họ làm bậy, làm càn, bất nhân vô đạo! Cứu cánh biện minh cho phưong tiện. Hãy nhìn những hình ảnh sau đây để thấy tính bất nhân và đồi bại của cờ quạt Đỏ Vàng,lằn ranh Quốc Cộng:
Trong quá khứ, không những chúng ta hùng hổ cắt cổ nhau mà còn gân cổ, gỡ tội và ca ngợi cho đồng minh, đồng chí của phe mình, những tên đã từng đè đầu giết hại dân tộc mình! Miền Bắc thì ôm đít Trung Hoa cho đến khi nó đánh cho vỡ mặt năm 1979, rồi bây giờ lại tiếp tục quì gối ca tụng và dâng cả đất đai cho Trung Hoa!
Thậm chí tối dạ đến nỗi Miền Bắc đã từng nhảy cẫng lên vui mừng, khi thấy Trung Hoa nó cướp đảo Hoàng sa, bắn giết đồng bào miền Nam của mình!
Và miền Nam thì hô hoán vui cười khi bom Mỹ đổ từng trận lên đầu đồng bào vô tội ở Khâm Thiên, Hà Nội!!! Khi Mỹ ngưng vì lý do chiến lược của riêng họ, nhiều ngưòi còn văng tục, tiếc nuối, bảo sao Mỹ không tiếp tục dội bom nữa! Và kéo nhau phản đối Mỹ phản bội! Mà Mỹ nó phản bội thiệt! Sau khi Mỹ “cầm tay” Trần Văn Lắm ký hiệp định Ba Lê, nó chạy thục mạng bỏ lại đàng sau cái lằn ranh quốc cộng đầy xác chết của 58 ngàn lính Mỹ, và của anh chị em quân nhân và đồng bào Việt nam hai bên “lằn ranh” lên đến hàng triệu ngưòi, một nhúm con lai đen trắng vô thừa nhận, và một đống mìn, thuốc độc chưa khai giải!
Đó là quá khứ, còn hôm nay, ở trong nước, cờ Đỏ CSVN, thì ai mở miệng lên tiếng nói lời phải trái dân chủ thì bị vu cáo là gián điệp tay sai đế quốc, tay sai tàn quân Ngụy Việt Kiều. Nhẹ ra thì cấm cửa rồi xúi dục những ngưòi thừa hành trẻ con dở trò mất dạy vô đạo, hỗn láo, mất dạy, bất lưong chặn đưòng hành hung côn đồ, đánh chửi ngưòi lớn.
Việt Kiều ở ngoài cũng thế! Còn có mặt tệ hơn, nghĩa là sống trong hai chế độ: Chế độ dân chủ sở tại và chế độ “Ngụy chống cộng với cờ vàng lằn ranh”. Ai lên tiếng nói lời phải trái ngôn luận thì bị trấn áp chửi bới đánh lén. Không thì ăn đạn súng Mỹ của những kẻ to mồm hô hào tự do dân chủ văn minh tự do ngôn luận!
Ai lỡ có cái cờ đỏ trong tay, hay có trong nhà là bỏ mẹ! Nơm nớp lo! Mà ở xứ tự do thông tin, hình ảnh lãnh tụ, cờ quạt đủ trò, nhất là sách vở học hành, sách báo du lịch nơi nào cũng in cờ của khắp thế giới thật rõ thật đẹp. Nhưng họ lại hạch nhau từng cái cờ sao không bôi đen gạch chéo! Đến nỗi vào một thư viện địa phương, và ngay cả đại học, sách vở nào có nói đến chế độ Ngụy CSVN, hơặc phê phán chế độ Ngụy VNCH, hoặc có hình ảnh gì đó, thì y như rằng bị xé, bị bôi bẩn v.v Lúc tôi còn làm luận án ỏ khoa chính trị nhân văn, đồng sự cứ than phiền hoài về vấn đề này.. Tôi chỉ thở dài lắc đầu!!! Tự nhủ cái não trạng nó di truyền tập nhiễm đã thành chủng tử mất rồi! (nói theo thuyết duy thức của ngài Thế Thân.) Tình trạng “kinh hoàng” này ngự trị khiến nhiều ngưòi có ý thức cao nhưng không có can đảm, nên “uốn lưõi hơn bẩy lần” mà vẫn không mở miệng được, chỉ xầm xì trong hàng quen biết thôi. Mà có thể là họ không muốn dây với hủi cũng không chừng!
Não trạng hàm ơn, chứa oán.
Bà Dưong Thu Hương vừa có viết bài nhận định não trạng hàm ơn khiến sự thay đổi thuận tiện cho dân chủ khó khăn. Tuy nhiên bà không lý giải đến cái não trạng cũ kỹ phe phái chống nhau bằng định kiến chính trị “cổ thời”, nó đã làm tăng lên cái hàm ơn và cả chứa oán nữa! Trần Đăng Khoa thì viết về “tính nông dân ngàn năm” rằng Đảng tặng cho cái cối đá sứt mẻ, nhớ ơn cả đời; ông Hà Sĩ Phu thì có nói đến não trạng Đảng chia “cho mượn” hai sào ruộng là hỉ hả ơn to, đi đâu cũng giơ nắm đấm “ai chống Đảng ông đánh bỏ mẹ!”
Ở ngoài này vui hơn! Ai đi từ miền Nam mà ngồi mở mắt mở trí nhìn lại những bến bờ cận sử đã qua, thấy đuợc nơi ruộng nưong đồi núi quê hưong chập chùng xương trắng ngưòi Việt Nam, thấy rõ tính ngụy của độc tài quân phiệt VNCH, thì liền bị chu tréo “ấy sao lại nói thế, sao lại vô ơn bạc nghĩa với nơi đã từng “cưu mang, đào tạo” mình! Cái lối nhận định này có nhiều tính ấu trĩ lạc hậu lắm.
1- Chính vì nó mà những kẻ sống bên Tây, ăn học bằng cấp Tây, đã làm tay sai cho Tây, vì nó hàm ơn đúng quá! Nhưng lại bị lên án là Việt gian!!!
2- Vậy người Việt Nam chân chính phải coi chừng đám Việt Kiều, họ sẽ hàm ơn nơi đã cưu mang đào tạo họ, họ sẽ đội Mỹ, Pháp, Úc, Anh v.v lên đầu và sẽ làm tay sai nước ngoài chống lại chúng ta, nếu như ngay cả sau này đất nước Việt Nam đã có dân chủ, nhưng vì bản chất chính trị quốc tế là quyền lợi quốc gia (Raison d’État, hay là national interests) sẽ nhất định có sự bất đồng tương tranh! Cứ giả thiết là đất nước Viêt Nam đã có dân chủ, và chúng ta trao đổi kinh tế thôi, như vụ cá ba sa chẳng hạn, các bạn Việt Nam sẽ biết, với não trạng hàm ơn Mỹ, Việt Kiều bênh ai rồi!!! Bởi vậy chưa cần phê bình các chế độ Ngụy VNCH làm gì, chỉ cần đọc tin tức thế giới, sách vở Mỹ, xem tài liệu Mai Cồ Mo mà nói, thì đám Việt kiều chống cộng cờ vàng- lằnranh cũng đã nhảy nhổm, như một bạn trẻ đã diễn tả là “như bị đổ nước sôi vào háng”!
3- Thật ra đây là hệ quả của sự thiếu hiểu biết về ý niệm công dân và tính làm chủ xã hội của con ngưòi. Hệ quả của quan niệm Tống Nho, Thanh Nho trong thời phong kiến.. nhà nước vua quan là phụ mẫu chi dân, mà hiện nay đảng CSVN vẫn sử dụng để nhồi nhét khuất phục sự phản kháng của giới trẻ.
Con ngưòi, hay ngưòi dân không có bổn phận hàm ơn nhà nước nào hết! Bởi vì bất kỳ nhà nước nào, dù là dân chủ tự do hay độc tài, cũng đều sống dựa vào công sức mồ hôi của nhân dân quần chúng mà tồn tại. Như vậy, chỉ có nhà nước quan chức là phải hàm ơn nhân dân quần chúng!
Trong một xã hội công dân, ngưòi dân muốn đi đâu chọn ở nơi nào là quyền của họ, họ không thích chế độ đó, họ có quyền chọn lựa hoặc bỏ ra đi làm di dân, tìm chỗ khác ở, nếu nơi khác cấp giấy cho phép, hoặc ở lại để phê bình chỉ trích những cái mà họ không thích không đồng ý. Chứ không phải là hễ không thích một chế độ thì cứ phải bỏ đi! Có người cho vàng họ vẫn cứ không thèm đi, mà cứ ở lại Việt Nam để phê bình, chỉ trích những cái khốn nạn bất lưong, bất nhân của nhà nước CSVN.! Sao lại có nhiều ngưòi vỗ tay nhỉ? Tôi nhớ không lầm thì nhà nước CSVN cũng nói rằng nếu không thích CSVN thì cút đi. Và VC cố gắng đẩy mấy người đó đi nhưng họ nhất định không đi. Và có những người bị đánh mê rồi lừa lên máy bay để “cút” cho khuất mắt CSVN. Ông nhà văn Sôi-dèn nít-xin của Nga, tác giả quần đảo ngục tù Gu Lắc cũng vậy, nhất định không đi, và cũng nhấtđịnh không thích chế độ Xô Viết, cứ viết sách chửi moi xấu chế độ CS Xô Viết cho đến khi bị trục xuất. Mai Cồ Mo, No- am-chồm-ky cũng vậy, cũng nhất định không thích cái tính khí ngưòi Mỹ da trắng, lịch sử man rợ củada trắng hành xử với da đỏ, luật súng ống của Mỹ, và nhất là chính sách ngoại giao ăn cướp bất nhân của Mỹ. lại viết ngay quyển sách “ngưòi da trắng đần độn”, nhưng chẳng có ai tối dạ ngu đần đến mức độ dám nói những ngưòi này không thích Mỹ như vậy thì “cút” đi cả! Không những vậy còn ăn nên làm ra, trúng giải Ớt Cay, rồi lại giải lá-dừa-vàng ở Ken nữa chứ. Khỉ thật! Cái nước Mỹ ngu thật dung chứa toàn quân “phản phúc, trở cờ” còn để “chúng nó” nổi tiếng rồi vỗ tay đi xem nữa. Mỹ phải học bài học hành xử “văn hoá, văn minh lằnranh” của công dân Mỹ gốc Ngụy VNCH thì nước Mỹ mới khá được! Không thì loạn mất!!!
Não trạng phân chia lằn ranh cờ quạt nó không dừng lại ở tính hàm ơn lố bịch và còn hun đúc cái não trạng chứa oán bất nhân nữa. Khi đã hàm ơn nhường ấy thì lại càng chứa oán càng nhiều, hận thù càng đầy. Họ trở nên nghiệt ngã vô tâm với đồng bào ruột thịt, nhưng lại rất dễ dãi “khoan dung độ lưọng với đồng minh, đồng chí xa lạ”. Hãy nói cái óc chia phe của cờ đỏ CSVN. Khi Trung Cộng tấn công cướp đất giết ngưòi Việt Nam họ không lên án mà còn ca ngợi, rồi tha thứ kết bè kết bạn, ôm hôn thắm thiết.
Đến cả ngày Tết, (mậu thân) đêm giao thừa linh thiêng Ngụy CSVN đã biến ngày ấy thành ngày giỗ của hàng ngàn ngưòi dân Việt Nam chỉ vì mục đích riêng tư của lãnh đạo. Trong khi các ông bà Ngụy ở miền Nam, hô hào vui mừng khi đồng bào vô tội của mình ở Hà Nội bị Mỹ đổ lên đầu hàng vạn tấn bom. Đó là chuyện ở “xa” trong lãnh địa của “kẻ thù”. Chuyện gần, ngay trên vùng đất của họ là những vụ Mỹ Lai, Thanh Phong, Mỹ càn bắn giết lương dân vô tội như một trò thể thao hàng ngày dã man cùng cực mà họ im lặng đồng lõa không hề lên án. Mà nếu có ai nói đến họ dương cổ bênh Mỹ.. “tại bởi vì rằng thì là” đủ lý cớ sùi cả bọt mép! Bí quá, họ đành lảng viện cớ rằng chuyện qua rồi, nhắc lại không có lợi! Nhưng họ không bao giờ im miệng khi có dịp nhắc đến cải cách ruộng đất, hoặc Đồng Xoài, Mậu Thân ở Huế, những tội ác của quân Ngụy CSVN. Phe Ngụy CSVN khi được nhắc nhở về đấu tố, Đồng Xoài, Mậu Thân v.v thì cũng một thái độ như vậy! Cố bào chữa và nói gia giảm đi. Họ chứa oán và hận thù bất kỳ ai có liên hệ dù lỏng lẻo hay chảng ăn nhập gì đến chính trị như những lương dân vô tội. Họ dửng dưng với những khốn nạn của đồng bào họ đã phải gánh chịu chỉ vì những tội ác tàn bạo đó là chính họ và do đồng minh, đồng chí của họ vi phạm. Có mấy ai thuộc phe Ngụy VNCH còn nhắc nhở đến những đồng bào còn sống sót sau vụ Mỹ Lai, Thanh Phong không? Có mấy ai ở phe Ngụy CSVN còn nhắc nhở nạn nhân của Mậu Thân không? Đảng CSVN bây giờ đang cai trị cả nước, đã có lời xin lỗi chính thức hay an ủy bồi thưòng cho đồng bào vô tội của mình chưa? Hay cứ chực chờ kể tội ngưòi khác và xin bồi thường? Cái liêm sỉ của tư cách lãnh đạo quốc gia ở đâu?
Cái khốn nạn trớ trêu, cay đắng và nhục nhã là cũng chính ngưòi Mỹ, một số là cựu quân nhân, họ đã nêu lên những tội ác này để kêu gọi sự công bằng trong lưong tâm con ngưòi! Còn chính họ, những đồng bào của nhau, kẻ hàm ơn, chứa oán, to mồm vì nhân quyền, to mồm vì nhân dân, vì dân tộc thì cứ chứa thêm oán thù để rồi chối bỏ quay lưng!!!
Hàm ơn càng to thì chưá oán càng nhiều! Chứa oán càng nhiều thì hàm ơn càng lớn! Nó bổ tức cho nhau ở một tỉ lệ thuận keo sơn đến mức độ có những não trạng trong này không chỉ oán “VC”, mà họ đã bắt đầu oán Việt Nam, cái gì đến từ Viêt Nam cũng dở, cũng xấu, xấu từ lối sống, văn hoá, con ngưòi đến thời tiết v.v và họ chống tất cả mọi thứ đến từ Việt Nam. Óc hàm ơn, chứa oán, mặc cảm lằn ranh đã biến họ có lối hành xử gần gũi với ngưòi Tây, Mỹ Úc, Đức v.v mũi lõ mắt xanh (chứ nhất định không thân thiện với Tây, Mỹ, Úc, Đức da đen đâu nhé! Dù cùng là công dân bình đẳng với nhau! Thân chết liền!). Họ ôm cổ bá vai kẻ da trắng thắm thiết, nhưng với đồng bào thì khinh khỉnh, lạnh lùng ngờ vực soi mói! Tên tuổi gốc Việt do cha mẹ đặt ra cũng dần dần biến mất; ngôn ngữ mẹ đẻ cũng không còn được trân trọng: Bố mẹ nói không nổi tiếng nước ngưòi, mà con cái lại không nói nổi ngôn ngữ của bố mẹ! Đó là “công trình” của hơn 30 năm “truyền thống cờ vàng não trạnglằn ranh” nhào nặn trong “tinh thần bảo tồn văn hóa Việt Nam” và tranh đấu cho dân chủ nhân quyền, tự do bình đẳng…. bằng mồm vào những ngày nghỉ cuối tuần v.v và v.v
Với thực trạng như vậy, nguồn hy vọng cũng như lời nhắn nhủ: “Đừng quên tiếng nói, tên Mẹ đừng thay” mà họ thưòng rêu rao hát hỏng trong bài nhạc “Mẹ năm 2000” của Phạm Duy, đã biến thành vô nghĩa! Nhưng họ lại tiếp tục tung hô với nhau rằng thế hệ trẻ ở hải ngoại sẽ là thế hệ Việt Nam chính thống (sic) ưu tú lãnh đạo và xây dựng Việt Nam trong tương lai (sic)!!! Thật là một sự xấc láo với đồng bào anh chị em trẻ trong nước! Chưa nói chuyện pháp lý quốc tịch, chính thống! Hãy chỉ mới nói đến “Đừng quên tíếng nói, tên Mẹ đừng thay” đã không làm đưọc ngay ở thế hệ thứ nhất là bậc cha mẹ, và ở thế hệ thứ hai này, thì đến những thế hệ kế tiếp, với não trạng lằn ranh hàm ơn, chứa oán như vậy, chắc chắn sẽ chỉ là thành phần “ưu tú lãnh đạo tay sai ngoại bang” và phá hoại mà thôi! Trừ khi mở đầu mở trí, mở rộng giao lưu với đời sống nhân dân đồng bào trong nưóc để trao đổi ý thức dân chủ, khoa học kỹ thuật mà họ ở ngoài này có phần hơn bên trong nưóc, để đổi lấy văn hóa, ngôn ngữ, tình tự giòmg sống sinh mệnh nổi trôi của dân tộc Việt Nam trong đời sống hàng ngày củangưòi dân Việt nam trên đất nưóc Việt Nam, những điều cơ bản bắt buộc phải có để làm một ngưòi Viêt Nam đúng nghĩa, mà họ không bao giờ có đưọc trong đời sống hải ngoại phương Tây.
Khi sợi giây tình tự dân tộc đã đứt đoạn rồi thì tiếng nói không xuất phát từ con tim thành ý, mà chỉ được phát ra từ phổi trong thói quen, nhu cầu làm dáng chính trị mà thôi!
Chủ Tịch Hồ Chí Minh-
Tổng Thố ng Ngô Đình Diệm yêu nưóc?
Anh Hùng Dân Tộc?
Tổng Thố
Anh
Tôi vốn dĩ không có thói quen chửi thề, chửi tục tiếng Đan Mạch (ĐM) từ tấm bé, dẫu rằng bạn bè quen biết trong thời niên thiếu đủ hạng ngưòi, du đãng (kho năm Tôn Đản, Cống Bà Xếp v.v), đĩ điếm (khu bàn Cờ) đủ loại , nhưng mà mỗi khi nghe ai nói “bác Hồ là ngưòi yêu nước thương dân, là anh hùng dân tộc”, đặc biệt là “cụ Diệm là ngưòi “không thương dân nhưng yêu nưóc” và cũng là anh hùng dân tôc”, thì tôi lại cứ muốn văng tục với cái lối dùng chữ nghịch hợp (oxymoron) và cưỡng từ đoạt lý hư cấu sự kiện như vậy!!!
Ở trong nước, việc nhận định Hồ Chí Minh là thánh, là thần v.v đã có gia giảm xuống ngựơc chiều theo sự gia tăng hiểu biết của quần chúng gìới trẻ về sự thật “con ngưòi Bác”! Những sự thật được phơi bày không thể chối cãi! Nhưng “bác Hồ” dù sao vẫn cứ là yêu nưóc và là anh hùng dân tộc!!! Một trong những nỗ lực gỡ rối cho nhân vật Hồ Chí Minh công phu nhất và được “kẻ thù chống cộng” hí hửng ôm vào, là nỗ lực của Lữ Phương (Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, 2002)! Còn ở ngoài đất nưóc Việt Nam, việc nhận định về nhân vật Ngô Đình Diệm lại bắt đầu có chiều hưóng gia tăng, từ tên tay sai độc tài , nay lại đang đưọc tô vẽ để trở thành yêu nưóc, anh hùng dân t ộc! (Ngô Đình Châu, những ngày cuối cùng của đệ nhất Cộng Hoà VN, xuất bản ở Mỹ, 1999” - Nguyễn Hữu Duệ, “Nhớ lại những ngày ỏ bên cạnh tổng thống Ngô Đình Diệm” , xuất bản ở Mỹ, 2003) v.v Nói chung nhiều lắm! .
Khổ thật! cận sử Việt Nam, những nhân chứng sống về hai ông “thần giời” này nó rõ mưòi mươi rồi mà những não trạng hàm ơn tối dạ, định kiến âm mưu chính trị phe phái cứ muốn lấy thúng mà úp con voi! Cứ muốn lừa bịp nhân dân Việt Nam! Mặc dù tôi cũng có trao đổi về “sự ái quốc, ái quần”của hai ông “con giời” này trong tập sách nhỏ “Núi Sông Có Mấy Nẻo Tình.” Nhưng nay cũng xin vì thế hệ trẻ mà rưòm lời một lần nữa về vấn đề này.
Yêu Nưóc- Anh Hùng Dân Tộc.
Yêu nưóc thì ai cũng có thể yêu nưóc, nói yêu nưóc, và thể hiện lòng yêu nưóc của mình nhiều cách, nhiều trưòng hợp. Nhưng trở thành anh hùng dân tộc thì không phải ai cũng trở thành được. Nó đòi hỏi một bưóc thật dài, cũng có thể rất ngắn, nhưng phải thật lớn từ chính bản thân, để trở thành “Anh Hùng” trước, nghĩa làm đưọc nhiều chuyện hơn người bình thường, và ảnh hưởng hành trạng phi thường của ngưòi “anh hùng” phải khởi đi từ lòng đại nghĩa vì dân vì nưóc, có giá trị tích cực và phải thật rộng bao quát ảnh huởng lên cả dân tộc! Như thế mới được gọi là anh hùng Dân Tộc (anh hùng của cả dân tộc, chứ không phải anh hùng của một phe nhóm định kiến chính trị, hay của một thành phần nào đó của dân tộc). Tào Tháo (của Tầu), Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Nhạc (của Ta), là những tay “anh hùng kiệt xuất” của thời đại họ- nhưng chắc chắn không phải là anh hùng dân tộc của Tầu, của Ta! Cho nên một ngưòi yêunưóc, và một ngưòi là anh hùng, và một người trở thành anh hùng dân tộc khác xa nhau lắm! Ông đội Cấn, từng là Việt gian, tay sai thầy đội cho Pháp. Nhưng khi ông gặp được nhà ái quốc Lương Ngọc Quyến lúc ở nhà tù, do đội Cấn cai quản, chỉ cho con đường sáng vì đại nghĩa dân tộc, ông đội Cấn đã vượt một bưóc thật dài để làm chuyện phi thưòng: vất bỏ quyển lợi an nguy bản thân, gia đình vì lòng yêu nưóc, yêu dân tộc, nổi lên đánh lại Pháp- sau 3 tháng cầm cự, thế yếu ông tuẫn tiết-[5][1] Hành trạng “anh hùng” của ông ngắn ngủi nhưng giá trị tích cực lan khắp cả chiều dài, chiều ngang của lịch sử Việt Nam, nhân dân không ai không mến phục (Trừ Hồ ChíMinh và cha con nhà Ngô Đình Diệm.)
Đấy! Chúng ta thấy yêu nước chưa chắc đã là anh hùng dân tộc! Nhưng an h hùng dân tộc thì chắc chắn là đã yêu nưóc trước rồi! Vì vậy, muốn xét một ngưòi anh hùng nào có phải là anh hùng dân tộc hay không, trưóc tiên hãy cứ xét kẻ “anh hùng” đó có yêu nưóc, yêu dân không đã! Nếu đã không yêu nưóc yêu dân thì chẳng thể nào trở thành anh hùng dân tộc được nữa!
Vậy yêu nưóc là gì? Làm sao biết một ngưòi yêu nưóc? Bởi vì ai cũng nói yêu nưóc! Và chúng ta thưòng nghe những tranh luận biện minh rằng : “Tôi yêu nưóc cái cách của tôi! Anh, Chị yêu nước theo cách của anh chị, chớ gì mà cứ phê phán nhau!” Có thật sự lòng yêu nước khó biết đến vậy chăng?
Thật ra muốn biết ai yêu nưóc dễ ợt! Nhưng phải hiểu cái chữ "nước" này nó ở đâu ra trước đã!
Dĩ nhiên, Nước có nghĩa là Đất Nưóc, Quốc Gia, nhỏ thì đi từ trong ý niệm làng nước ra đến ngoài là cái quốc gia có lãnh thổ và chính quyền, nhưng khi nói yêu nưóc, “ái quốc” thì ý niệm Nưóc hay Quốc không ngưng lại ở chỗ này? Cụ Nguyễn Trãi dạy "lật thuyền mới thấy dân như nước"! Dẫu cụ có ý nói “sức tràn của nưóc” nhưng rõ chính "nước" là dân vậy.
Theo lý thuyết cổ đại của Việt Nam ta, xã tắc, hay quốc gia, không chỉ là một thực thể chính trị, nhà nưóc , lãnh thổ, mà nó bao gồm nhân dân, những cái gần cận sát da , sát thịt của “con ngưòi” là cái mái nhà của mỗi ngưòi. Mà khi nói “nhà” thì người Việt ta nói đến mình, nói đến những ngưòi thân yêu của mình sống dưói mái nhà ấy. Chứ không phải cái “nhà” bằng ngói, gạch xây đưọc, phá được hoặc bán được. Cho nên các cụ mình, vợ chồng mới gọi nhau là “mình ơi” và khi đề cập đến vợ hay chồng mình với ai thì nói “nhà tôi”.
Chính vì quan niệm nhân chủ như vậy, coi trọng con ngưòi như vậy mà trong Nho Giáo, Mạnh tử cũng nhấn mạnh “Dân vi quí, xã tác thứ chì quân vi khinh.” Dân quí trọng nhất, sau đó mới đến lãnh thổ, còn nhà nưóc, chế độ chính trị, thì xếp hạng bét! ( Khổ! Nói đến đây cứ muốn văng tục cho cái não trạng cờ vàng cờ đỏ, lằn ranh quốc cộng, chúng nó cứ bo bo coi nhà nưóc chế độ là quan trọng nhất và cứ hàm ơn lải nhải, nào là đã cưu mang, đã bảo bọc, đào tạo v.v và v.v thật là tối dạ, lạc hậu!!!) Mà ngay hiện nay trong quan niệm về dân chủ cũng như thế. Tất cả phải do dân, từ dân, và vì dân! Cho nên mới gọi chính quyền (legitimate authority), còn đã không phải do, từ dân, vì dân thì không chính đáng (illegitimate authority) chỉ là ngụy quyền! Vì thế chữ Nước,(quốc) là tổng hợp ba thành tố, chính quyền, lãnh thổ, nhân dân, mà trong đó nhân dân đứng hàng đầu!
“Cho nên yêu nước tức là phải yêu dân trưóc, yêu nưóc và yêu dân không thể tách rời. Cũng như khi nói tôi yêu mái nhà của tôi tức là tôi yêu những ngưòi cùng sống với tôi trong đó, là vợ chồng con cái, hay cha mẹ anh chị em của tôi. Chứ không phải yêu cái mái nhà lá, nhà ngói, tưòng gạch tưòng vôi v.v cái nhà vật thể có thể bỏ đi, bán đi hoặc cho thuê! Cái giới hạn của ngôn ngữ cụ thể, cũng như cái bao quát của ngôn ngữ trừu tượng, đặc biệt của Việt Nam ở chỗ này. Yêu nước, ái quốc, chữ nước, chữ quốc không còn chỉ mảnh giang sơn, lãnh thổ mà trên hết là người dân. Yêu nước tự nhiên, tự nó đã là yêu dân. Hay phải nói đúng hơn rằng phải yêu dân rồi mới yêu nước được. Như thế, không thể nói yêu nước nhưng không yêu dân được. Nếu không yêu dân mà nói yêu nước thì chỉ là cái yêu quyền, yêu lợi! Nói th ẳng ra là bốc phét!!!
Đất và nước là vật hữu hình, nhưng khi chữ “nước” nằm trong "lòng yêu", nó bao gồm tính trừu tượng tinh thần tổng hợp nhân, thần, và vật: nhân dân, quần chúng đứng hàng đầu. Sau đó mới là thần, thần nhân, thần vật, thần khí, ta gọi là hồn thiêng sông núi, sau cuối mới đến cơ chế chính quyền nhà cửa đất đai, vườn tược của mình. Nó mang theo những hành động cụ thể bắt buộc, vì "lòng yêu nước" không chỉ nói, phát ra từ phổi, mà bằng quả tim, khối óc. Có người nào yêu nước mà không bất bình khi thấy đồng bào mình bị ngoại nhân hành hạ khinh bỉ, đọa đầy. Có ai yêu nước lại có thể dửng dưng trước thảm cảnh khốn cùng của đồng bào mình? Trong Bình Ngô Đại Cáo, cụ Nguyễn Trãi đã diễn tả những cảnh khốn cùng của nhân dân từ lòng bất bình của một người yêu nước. Yêu nước tự nó đã có yêu dân, như dân chủ tự nó đã là đa đảng. Không thể nói yêu nước mà không yêu dân, cũng như không thể nói dân chủ mà độc đảng vậy. Cho nên hễ độc đảng tức là phi dân chủ, không tự do. Và hễ không yêu dân, ức hiếp dân, khinh dân, để dân đói khổ, lạc hậu tức là không yêu nước.”[6][2] Có ai đánh vợ mắng con, bỏ bê vợ con, ngoại tình, mèo mả gà đồng, hoặc bán vợ đợ con rồi mở miệng nói tôi yêu quí gia đình vợ chồng con cái tôi tôi không? Đấy chữ Gia trong Quốc Gia là Gia đình, là những ngưòi cùng với mình sống dưói cái mái nhà đó! Tức là “Con Người”. Không hiểu đưọc lý lẽ cơ bản này thì chui đầu vào nhà xí mà chết đi. Sống chật đất làm phí giờ ngưòi khác!!!
Hiểu những ý niệm cơ bản về Quốc Gia như vậy ta mới thấy rất là dễ dàng nhận định một ngưòi có yêu nưóc hay không! Cứ xét xem có yêu dân hay không? Một cá nhân Việt Nam bình thưòng không thể nói yêu nước Việt Nam, khi ôm thằng tây, con đầm mũi lõ mắt xanh thì cưòi toe toét, mà nhìn đồng bào của mình thì khinh khỉnh, soi mói, nghi ngờ! Tên tuổi Việt Nam mặc cảm không dám giữ, ngôn ngữ mẹ đẻ không biết! Ai chê Việt Nam thì hô hố cưòi theo, nói theo. Ai nói động đến nưóc Mỹ, nưóc Pháp, nưóc Úc, nước Đức, nước Nga, nước Tầu, thì xám mặt hung hăng giở trò bất nhân! Mà xét đến lãnh đạo và một chế độ có yêu dân hay không thì lại càng dễ hơn nữa!
Không thể nói yêu nước khi sẵn sàng dâng đất cho người ngoại bang và càng không thể nói yêu nước khi sẵn sàng đưa đàn bà con gái cho ngoại bang làm quà hay cùng vui chơi hưởng lạc với đồng minh, đồng chí trên thân xác nhân dân mình. Như cả hai chế độ Nam Bắc đều đã phạm. Đặc biệt anh em Diệm đã đưa cả "đoàn phụ nữ liên đới" của vợ Nhu đem làm quà cho khách ngoại quốc! Càng không thể đem xuất khẩu đồng bào mình để lấy vàng lấy ngoại tệ, như đám đầu lãnh CSVN đã tổ chức “vượt biên” hợp pháp! Rồi bây giờ xuất khẩu lao động kiểu đem con bỏ chợ!
Cũng không thể nói yêu nước khi thẳng tay cắt cổ, hành hạ đồng bào mình, đem đồng bào mình, những người nuôi nấng mình giúp đỡ mình ra đấu tố- Xúi dục tuổi trẻ chửi cha mắng mẹ chà đạp đạo lý Việt Nam; hoặc cùng ngoại nhân hay để mặc ngoại nhân hành hạ bắn giết đồng bào mình, bỏ bom đồng bào mình rồi vỗ tay ăn mừng chiến công chiến thắng. Yêu nước thì không thể đàn áp nhân dân vì niềm tin tôn giáo của họ được. Yêu nước thì không thể gian trá coi thường niềm tin linh thiêng của dân tộc, bất chấp ngày Tết, gây chiến tranh biến đêm giao thừa linh thiêng văn hiến thành ngày giỗ tang của hàng ngàn đồng bào mình như Mậu Thân được. Yêu nước lại không thể bắt bớ nhân sĩ khi người ta lên tiếng nói phê bình bất bạo động được. Yêu nước thì lại càng không thể ngoảnh mặt nhìn lính chiến ngoại nhân giết hại đồng bào của mình, rồi làm ngơ bưng bít, như Mỹ Lai được. Yêu nước lại càng không thể chấp nhận bom B52 cày nát nhà cửa của đồng bào mình, xác thân con em mình rồi vui mừng chiến thắng hay uất ức khi nó ngưng oanh tạc vì đã đủ nhu cầu chiến thuật của nó. Những cái "yêu nước" bệnh hoạn ấy nhân dân bẩn tai không muốn nghe, dơ mắt không muốn nhìn. Đấy có ai còn muốn hô hào “cụ Diệm” hay “bác Hồ” yêu nưóc nữa không? Có cần chứng minh nữa không? Cái lũ đầu tôm vong bản, tay sai tôi tớ ngoại bang này thì chắc vẫn chưa chịu nhìn nhận lãnh đạo của họ, chế độ của họ là tay sai bán nước đâu!!! Này muốn bàn rõ bằng cớ thì đây!
Bây giờ xét ông “giời con” Ngô Đình Diệm trước! Xem ông này có yêu dân hay không?
Ngô Đình Diệm.
Ai thích nghe những lòi tán tụng, thương nhớ ông “giời”, hoan hô VNCH, xin cứ tìm đọc những sách như của Phạm Văn Lưu (Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại Ngô Đình Diệm Bang Giao Việt Mỹ), Minh Võ (Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê), Nhóm Nghiên Cứu Sử Việt Cận và Hiện Đại –Santa-Clara, Cali, Mỹ (Việt Nam, cuộc chiến tranh Quốc Gia và Cộng Sản), Ngưyễn Văn Chức (Chính Sử) v.v Hoặc những tên tuổi khác như Phan Phát Huồn, Vũ Đình Hoạt, Vĩnh Phúc v.v hoặc kể cả tên bất lương, vô sỉ Tú Gàn Lữ Giang (Vô sỉ bất lương, nhưng có cờ vàng, lằn ranh mà! Cho nên vẫn có uy tín với một số người!!!)
Ai không thích “cụ Ngô” thích tìm “sự xấu” thì cũng xin tìm đọc những sách như của Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu, Nguyễn Mạnh Quang, Hương Bình Lê Hữu Đản, Cửu Long Lê Trọng Văn, Trần Văn Kha, và của ngay ông tu sĩ Cao Văn Luận, và nhất là những bài vở của nhóm Giao Điểm (Mấy ông thần giời này có nhiều sử chứng rất chính xác, nhưng bị cái bệnh tấn công tín ngưỡng người, ca ngợi tín ngưỡng mình, thành ra giảm giá trị và làm xấu hổ cả Thích Ca!!! Bởi vì ai đọc kinh Phật cũng biết trong kinh Kim Cương, Phật đã giải thích và cảnh cáo mọi người qua sự giải đáp với Văn Thù Bồ Tát rằng phải coi chừng loại ma vương Ba Tuần, nó hiện thân qua sáu ngả khác nhau, mà ngả thứ ba (3) và thứ sáu (6) là thưòng thấy trong giói chữ nghĩa khoa bảng!!! ( Ai không biết sáu loại này, xin tìm kinh Kim Cương mà đọc!!!)
Ở đây, tôi xin bỏ qua những liên hệ về cá nhân và xuất thân của ông Diệm như việc bố ông là Ngô Đình Khả leo lên địa vị nhờ làm thông ngôn cho Pháp và phục vụ thực dân cùng Nguyễn Thân đào mả cụ Phan Đình Phùng. Tôi cũng không bàn đến việc ông nhờ “ấm cha và ấm cha đỡ đầu là Nguyễn Hữu Bài” cũng như chính bản thân ông hết lòng tận tụy với Pháp trong buổi ban đầu tảo trừ, tra tấn phiến loạn “kháng chiến và cộng sản” để leo lên bậc thang “thượng thư” trước khi ngả theo Mỹ, hoặc chuyện đòi tư của ông bỏ bê và định thủ tiêu cả vợ con mà ông Hương Bình Lê Hữu Đản hay nhắc đến, hoặc vụ “tham lam” cái nghiên Tức Mặc Hầu mà cụ Vương Hồng Sển cũng nhắc đến. Tôi chỉ xét việc thương dân, yêu nước trong chín (9) năm cầm quyền.
Để sòng phẳng, phải nói, đối với những người di cư, đặc biệt là những người công giáo trong dịp theo “Đức Mẹ vào Nam”, họ nhớ ơn ông đã ra tay “tế độ”, cũng là việc đúng và thưòng tình! Nhưng cũng phải nói thêm chẳng phải vì ông thương dân lành lầm than bị Hồ Chí Minh đàn áp, mà ông và thế lực ngoại bang muốn lập cơ sở hậu thuẫn và củng cố quyền lực trước viễn ảnh có thể phải đối đầu với cuộc tổng tuyển cử năm 1956. Hơn nữa người trong Nam không hoàn toàn ủng hộ ông “vua dân chủ” của Lăng Đèo mỹ này. Như vậy với ông hậu thuẫn mạnh nhất vẫn là lực lưọng công giáo. Và vì thế ông đặc biệt “thương dân xóm đạo” rồi khinh thưòng nghi kỵ người Lương mà ngay linh mục Cao Văn Luận (Bên Giòng Lịch Sử) cũng không thể đồng ý- vì nó quá chướng và làm hại quốc gia. Ai đã đọc Đặng Chí Bình (Thép Đen) ắt sẽ thấy lòng tin và quyền lực của các linh mục xóm đạo đến mức nào trong thời ông Ngô Đình Diệm. Do đó những mâu thuẫn trong xã hội và sự việc đàn áp phật giáo xảy ra một phần lớn là từ sự “yêu dân” này. Ông bất chấp sụ kiện rằng 80% dân số Việt nam là phật tử, hiểu theo nghĩa thoáng, ông đã chỉ vì quyền lực và lòng tư riêng với niềm tin tôn giáo của mình và gia đình gây nên cảnh nồi da xáo thịt ngay trong nửa phần đất còn lại, mà lẽ ra, nếu thật sự vì đại nghĩa dân tộc, và có tài chính trị, ông đã phải cân bằng và hóa giải trong nỗ lực thật sự thực thi nền dân chủ để đối đầu với lực độc tài đảng trị tại miền Bắc. Ông không những thiên vị, coi thưòng, nghi kỵ người không công giáo mà còn vì quyền lực của mình và gia đình để anh em thao túng (Ngô Đình Thục, Vợ chồng Nhu, Cẩn) mà còn đàn áp bắt bớ thủ tiêu đối lập như Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Hồ Hữu Tưòng, Nguyễn Tường Tam v.v khiến cho sự đoàn kết quốc gia và nền tảng dân chủ không nẩy nở được, nhân tài không tham gia chính sự đuợc đúng mức.
Cơ hội tốt đẹp để có một nền dân chủ thật sự, tổng hợp đưọc sức lực miền Nam còn lại để chống với miền Bắc và giải phóng miền Bắc, sau những nỗ lực phá hoại của Pháp trước khi ra đi, đã bị não trạng quân quyền phong kiến của ông và gia đình ông bóp chết. Khi người Mỹ không thể dùng ông đưọc nữa vì những mâu thuẫn do chính não trạng và hành xử phong kiến của ông với những người chung quanh, Ông đã không nỗ lực vì quyền lợi quốc gia để hòa giải và thực thi dân chủ, quay qua quay lại, ông không còn hậu thuẫn, ngay cả một số người công giáo cũng không ủng hộ ông nữa, ông cũng không nghĩ đến giải pháp dân chủ là bầu cử lại để dân miền Nam thể hiện quyền dân chủ xét đoán việc làm của ông, và chọn chính quyền mới, ông lại quay ra thỏa hiệp với Hồ Chí Minh, một học trò tinh túy của chủ nghĩa đệ tam (ông Phan Nhật Nam nhận xét điều này rất chi tiết chuẩn xác (1973), lúc nào cũng sẵn sàng bán đứng nhân dân và đất nước. Theo thiển ý của tôi, là ông biết thừa Hồ Chí Minh là ai rồi, vì hai người có gặp nhau, đối đáp khi ông bị Hồ Chí Minh bắt rồi sau đó thả! Ông chỉ lầm mầu , làm mình làm mẩy với Mỹ, với những người yêu nước khác, ra cái điều không theo tôi, ủng hộ tôi, tôi chơi với VC cho mà xem!!! Chứ không phải vì nền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ chủ quyền của đất nước, không muốn làm tay sai Mỹ, hay tránh cho nhân dân cảnh chinh chiến tương tàn! Vì nếu thật như vậy và được như vậy, thì quả nhiên Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh quả thật là thương dân yêu nước, có tự trọng dân tộc, và thật sự là anh hùng dân tộc vĩ đại!!!
Nhưng cay đắng lắm đồng bào ơi! Ông Diệm (và HCMinh) chỉ nghĩ đến mình, đảng của mình, coi thường và không trọng ý kiến, nguyện vọng người dân! Tự coi mình là chủ của quốc gia, mà quốc gia chỉ là tài sản của riêng mình, gia đình mình, đảng mình theo kiểu phong kiến. Hậu quả không thể tránh đưọc là cuộc đảo chính thoán quyền do Mỹ cầm đầu, và miền Nam lại rơi vào tình trạng ngụy quyền quân phiệt làm tay sai cho Mỹ đến khi CSVN mạnh hơn, thống nhất đất nước vào năm 1975.
Như vậy ông yêu nước ở chỗ nào? Ông làm sao yêu nước được khi lòng yêu dân không có? Ông Trần Trung Dung có kể lại câu chuyện ông đi kinh lý, bắt các học sinh làm dàn chào chờ đợi ông trong nắng nôi ,có nhiều em đã ngất xỉu. Thế mà khi ông Trần Trung Dung “rụt rè, khúm núm” báo cho ông biết để “tha” cho các em nhỏ, ông đã ngắn gọn trả lời ý là làm tổng thống cũng như làm vua thôi! Dân phải phục dịch có chết cũng đã sao? Đấy, một con người mà khệnh khạng như ông vua như vậy, coi thưòng các định chế dân chủ, xem mạng người dân trẻ thơ không ra gì như vậy, mà bảo rằng có dân chủ, có yêu nước, có thương dân thì quả thật chữ nghĩa tăm tối hay cái óc phe phái hàm ơn nó đồi bại đến cùng cực???!!! Tôi xin tạm ngừng ở đây để quí độc giả yêu ghét thẩm định, để xin bàn qua “bác Hồ” yêu nước, thương dân, anh hùng dân tộc!
Hồ Chí Minh.
Cũng sòng phẳng như bàn về ông Diệm, tôi không bàn về việc riêng xuất xứ của ông Hồ như Trần Quốc Vưọng và nhiều người đã bàn, chẳng hạn như việc ông “ôm cháu gái” Nông Thị Xuân, ăn ở đã có con, rồi vì “phương diện quốc gia”, để cho thuốc cấp cưỡng hiếp đập đầu giết chết một cách tàn bạo, nghiệt ác; đến cả con ruột (Nguyễn Tất Trung, con của bà Nông thị Xuân và Ông) cũng không nhận nuôi phải lưu lạc! Hay nghi án bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp, hoặc việc tự viết sách khen mình với cái tên Trần Dân Tiên v.v Tôi chỉ bàn đến hành trạng có liên quan trực tiếp đến việc điều hành trị nước cai dân của ông.
Khởi đầu phải nới đến cái “anh nho nhỏ hốc hác” yêu nước, len lỏi xấn vào buổi hội nghị Vẹc Xây 1919 để đưa kiến nghị..
1- Thả tự do tất các tội phạm chính trị bản xứ;
2- Thay đổi hệ thống công lý để bảo đảm quyền tư pháp ngang bằng cho người Viẹt Nam như người Âu Châu, và sự đàn áp của các Tòa án mà thật ra chỉ là công cụ khủng bố và áp búc chống lại nhân dân Việt Nam lương thiện;
3- Đưọc Tự Do Báo Chí và Tự Do Phát Biểu Ý Kiến;
4- Được Tự Do Hội Họp và Lập Hội;
5- Tự Do Vãng Lai, Cư Trú, và Du Lịch;
6- Tự Do giáo dục học hỏi, phát triển kỹ nghệ, thương mại, nghề nghiệp;
7- Thay thế chế độ cai trị bằng sắc lệnh bằng chế độ pháp trị;
8- Được (Tự Do)Tuyển cử đại biểu thưòng trực của nhân dân Viêt Nam ở Quốc Hội Pháp để có tiếng nói đại diện và bảo vệ quyền lợi của người Việt Nam.
….. Thay mặt nhóm người Việt Yêu Nước.
Ký Tên Nguyễn Ái Quấc (Không phải Quốc!)[7][1][1]
Cứ xét cho công bằng theo tình thần kiến nghị thì quả thật “anh chàng” này yêu nước, yêu dân!!! Đòi hỏi chính đáng cho đồng bào anh ngay trên “đất địch”, đất tương đối có tự do phát biểu- Thế nhưng….26 năm sau, khi anh trở thành “Bác” ở tuổi ngoài 50, nắm quyền, có cơ hội đại đoàn kết toàn dân Việt nam chống Pháp, Ông đã trở thành tay sai ngoại bang, giết hại đồng bào chiến hữu để độc quyền áp đặt chủ nghĩa cộng sản. Cái cơ hội tốt đẹp đại đoàn kết toàn dân, ông đứng đầu và chính ông phá vỡ. Cũng như ông Diệm ép người ta theo mình, đứng dưói cờ, dưói trưóng của mình không đưọc đâm thù vặt giết hại thủ tiêu! Ngay tại thời điểm này ông không coi tiền đồ độc lập tự do dân chủ là chủ đích, sinh mạng nhân dân là quan trọng, mà chỉ là làm sao nắm quyền để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, mà chính miệng ông nói ra rằng ông chẳng có tư tưỏng gì, những cái hay đẹp chân lý, LêNin và Mao đã có sẵn cho ông!:
"Có đồng chí còn nói: hay là ta viết tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh có phải hay không! Câu nói của tôi, làm cho mắt ông già (HCM) rạng lên theo lời đáp cấp kỳ:
-Không, tôi không có tư tưởng ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin. Tôi chỉ có phương pháp để giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta. Như tôi thường nói: lạt mềm buộc chặt đó là phương pháp cột cái gì đó của tôi.(Ông cột không được "cái gì đó", nên mới gieo hoạ cho Nông Thị Xuân. Người viết , NK chú thích). Mà cho đến phương pháp như vậy thì cũng có sự chỉ biểu của phương pháp biện chứng. Chớ còn tư tưởng là quan niệm về vũ trụ về thế giới và về xã hội con người, thì tôi chỉ là học trò của Mác, Ang-ghen, Lênin, chớ làm gì tôi có tư tưởng ngoài triết học Mác.
(Vấn đề này đang có tính thời sự. May sao đồng chí Việt kiều Thái Lan, Lê Quang Lơ hãy còn đó mà làm chứng cho tôi). (Chú thích của Ông bảy Trấn).... (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Chưong -Gặp Bác Hồ).
Khi lên tột đỉnh quyền uy, ông vẽ ra lằn ranh vô sản, theo lời cố vấn của Tầu, đem đồng bào nhân dân ra đấu tố, đấu tranh giai cấp, tàn sát kể cả những người từng theo ông, giúp ông, nuôi nấng che chở đám cách mạng của ông, chỉ vì người ta yêu nước, yêu độc lập dân chủ và tự do. Cái khốn nạn hơn là Ông đã hợp pháp hoá hành động bạo ngưọc tàn hại văn hóa đạo lý Việt Nam khi cổ võ cho những đưá con, cháu, vuốt ngược tóc chửi mắng tố cáo anh chị, cha mẹ, ông bà của mình! Thật là một thảm họa đẫm máu chưa từng thấy của cả dân tộc Việt Nam trong suốt hơn 4 ngàn năm hiện hữu!
Đã thế ông nuốt luôn cái tám điểm (8) ông nhân danh dân tộc Việt Nam đòi hởi từ tay thực dân Pháp. Ông tự biến Ông thành một vị vua, cha già dân tộc, đảng CSVN của ông, thành một hoàng tộc phong kiến, tập quyền! Cứ nghe sự hiểu biết và lý giải của ông về dânchủ với trai trẻ thanh niên thời bấy giờ do ông Bẩy Trấn thuật lại thì rõ ràng hết cách bào chữa:
"Bác không đi vào những vấn đề nêu trên bích báo. Sa chân vào đó thì ra sao được. Nhưng cũng không khỏi nói tới bích báo hỏi Dân chủ tập trung là gì?.
Có lẽ là vì bích báo hỏi nên Bác trả lời với lời văn bích báo:
-Như các cô, các chú có đồ đạc, tài sản gì đó ,thì các chú các cô là chủ, đó là dân chủ. Các chú các cô không biết giữ, tôi giữ dùm cho. Tôi tập trung bỏ vào rương. Tôi khóa lại và bỏ chìa khóa vào túi tôi đây. Đó là tập trung!
Trong hội trường phía học viên, lặng trang. Phía công nhân viên, cười ì xèo. Bác ra về. Tôi lốc thốc theo đưa. Bác hỏi:
-Tôi nói như vậy có được không?
-Dạ thưa, Bác nói thì thôi!
Tất nhiên là bích báo cứ vô tình tường thuật. Tôi xin không kể lại. Vì là: Bác đã nói thì thôi!.
(Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Chưong -Gặp Bác Hồ).
Cá nhân ông Hồ, ông tiến hành việc chống Pháp như là một bổn phận, một bưóc đầu của lý tưỏng vô sản quốc tế theo bài bản ba giòng thác cách mạng, mà giòng thác “giải phóng dân tộc” chỉ là chặng đường đầu tiên theo biểu quyết của khuynh hưóng đệ tam quốc tế. Chính ông Hồ đã xác nhận điều này và đã đưọc “lịch sử Đảng” ghi nhận “ .. Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ..”[8][2]
Ngoài những việc rõ ràng này ra, những hành xử bán nước như ký với Trung Cộng vào năm 1957, và cuộc tấn công gây máu đổ cho dân tộc vào đêm giao thừa linh thiêng văn hiến tết Mậu thân, tôi không kể ở đây.. Vì có phần thao túng lớn của Lê Duẫn, Lê Đức Thọ. Nhưng với cương vị chủ tịch Đảng, người uy tín nhất nước “Bắc” thì “Bác” không thể nói là vô can.
Kết luân lại, khi nói về hai ông “thần gìời” này, khó có thể chối bỏ đưọc là họ kiệt xuất trong thủ đoạn chính trị, bản lãnh lì lợm, đáng là anh hùng, vì hai ông hơn hẳn thiên hạ và những người đồng thời. Cũng như Nguyễn Nhạc và Nguyễn Hữu Chỉnh vậy. Nhưng bảo là yêu nước thương dân, vì đại nghĩa dân tộc, tạo công đức cho dân tộc, và là anh hùng dân tộc thì rõ là hàm hồ lạm dụng chữ nghĩa, cưỡng lý đoạt từ!
Yêu nước nhưng không yêu dân chỉ là ngụy biện, cái yêu đất nước ấy là yêu vật, vô lương, bất nhân. Coi đất nước là một sở hữu, để tranh giành, cái yêu ấy nó giống như yêu tiền của những tên tư bản trọc phú, những tên mị dân độc tài yêu quyền lực. Như những đấng "anh hùng" yêu giang sơn trong cuộc "đuổi hươu", tranh giành quyền lực như Trịnh Nguyễn. Thế thôi. Cái lối chơi chữ "nghịch hợp" Tây Phương không nằm được trong ngôn ngữ tinh thần súc tích của tiếng Việt được. Ai cũng có thể nói yêu nước, nhưng muốn biết cứ nhìn vào đời sống nhân dân, sự phát triển của đất nước thì rõ không cần tranh cãi. Hiện trạng Việt Nam từ nửa thế kỷ nay cho đến bây giờ không chứng nhận bất cứ bọn cầm quyền nào là yêu nước cả.
Cái lý luận yêu nước không cần yêu dân nó có tự lúc nào vậy? Một kẻ bắt dân yêu mình, một đứa bịp dân, bắt dân yêu mình! Đều được ca ngợi yêu nước, anh hùng dân tộ c. chữ nghĩa nó tối tăm, khốn nạn hay đầu óc những kẻ cầm bút nhơ bẩn, nô lệ!
Đưọc như Đức Quang Trung hay như cụ Phan Đình Phùng khi phải đối diện với sự chọn lựa giữa quyền lợi bản thân, êm ấm gia đình, và đại nghĩa đất nước dân tộc, khi kẻ thù và tay sai Việt Gian đào mả giòng họ cha mẹ để buộc cụ đầu hàng, cụ đã cương quyết trả lời:
"Ta chỉ có một ngôi mả rất to phải giữ, đó là nước Việt Nam, người bà con rất to phải cứu, đó là mấy mươi triệu đồng bào. Về sửa sang phần mộ của mình, ai sẽ lo ngôi mộ cả nước? Về để cứu lấy bà con, ai sẽ lo cho bao nhiêu triệu người anh em khác? Ta thề chỉ có một cái chết mà thôi." (Phan Đình Phùng.)
Ai dám đặt câu hỏi, hay chối bỏ cụ Phan Đình Phùng yêu nước thưong dân, vì đại nghĩa dân tộc; và ai dám không chấp nhận cụ là Anh hùng dân tộc của giòng Lạc Hồng bất khuất này? ( Có lẽ có Nguyễn Gia Kiểng chăng???)
Tôi vốn dĩ không có thói quen chửi thề, chửi tục tiếng Đan Mạch (ĐM) từ tấm bé, dẫu rằng bạn bè quen biết trong thời niên thiếu đủ hạng ngưòi, du đãng (kho năm Tôn Đản, Cống Bà Xếp v.v), đĩ điếm (khu bàn Cờ) đủ loại , nhưng mà mỗi khi nghe ai nói “bác Hồ là ngưòi yêu nước thương dân, là anh hùng dân tộc”, đặc biệt là “cụ Diệm là ngưòi “không thương dân nhưng yêu nưóc” và cũng là anh hùng dân tôc”, thì tôi lại cứ muốn văng tục với cái lối dùng chữ nghịch hợp (oxymoron) và cưỡng từ đoạt lý hư cấu sự kiện như vậy!!!
Ở trong nước, việc nhận định Hồ Chí Minh là thánh, là thần v.v đã có gia giảm xuống ngựơc chiều theo sự gia tăng hiểu biết của quần chúng gìới trẻ về sự thật “con ngưòi Bác”! Những sự thật được phơi bày không thể chối cãi! Nhưng “bác Hồ” dù sao vẫn cứ là yêu nưóc và là anh hùng dân tộc!!! Một trong những nỗ lực gỡ rối cho nhân vật Hồ Chí Minh công phu nhất và được “kẻ thù chống cộng” hí hửng ôm vào, là nỗ lực của Lữ Phương (Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, 2002)! Còn ở ngoài đất nưóc Việt Nam, việc nhận định về nhân vật Ngô Đình Diệm lại bắt đầu có chiều hưóng gia tăng, từ tên tay sai độc tài , nay lại đang đưọc tô vẽ để trở thành yêu nưóc, anh hùng dân t ộc! (Ngô Đình Châu, những ngày cuối cùng của đệ nhất Cộng Hoà VN, xuất bản ở Mỹ, 1999” - Nguyễn Hữu Duệ, “Nhớ lại những ngày ỏ bên cạnh tổng thống Ngô Đình Diệm” , xuất bản ở Mỹ, 2003) v.v Nói chung nhiều lắm! .
Khổ thật! cận sử Việt Nam, những nhân chứng sống về hai ông “thần giời” này nó rõ mưòi mươi rồi mà những não trạng hàm ơn tối dạ, định kiến âm mưu chính trị phe phái cứ muốn lấy thúng mà úp con voi! Cứ muốn lừa bịp nhân dân Việt Nam! Mặc dù tôi cũng có trao đổi về “sự ái quốc, ái quần”của hai ông “con giời” này trong tập sách nhỏ “Núi Sông Có Mấy Nẻo Tình.” Nhưng nay cũng xin vì thế hệ trẻ mà rưòm lời một lần nữa về vấn đề này.
Yêu Nưóc- Anh Hùng Dân Tộc.
Yêu nưóc thì ai cũng có thể yêu nưóc, nói yêu nưóc, và thể hiện lòng yêu nưóc của mình nhiều cách, nhiều trưòng hợp. Nhưng trở thành anh hùng dân tộc thì không phải ai cũng trở thành được. Nó đòi hỏi một bưóc thật dài, cũng có thể rất ngắn, nhưng phải thật lớn từ chính bản thân, để trở thành “Anh Hùng” trước, nghĩa làm đưọc nhiều chuyện hơn người bình thường, và ảnh hưởng hành trạng phi thường của ngưòi “anh hùng” phải khởi đi từ lòng đại nghĩa vì dân vì nưóc, có giá trị tích cực và phải thật rộng bao quát ảnh huởng lên cả dân tộc! Như thế mới được gọi là anh hùng Dân Tộc (anh hùng của cả dân tộc, chứ không phải anh hùng của một phe nhóm định kiến chính trị, hay của một thành phần nào đó của dân tộc). Tào Tháo (của Tầu), Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Nhạc (của Ta), là những tay “anh hùng kiệt xuất” của thời đại họ- nhưng chắc chắn không phải là anh hùng dân tộc của Tầu, của Ta! Cho nên một ngưòi yêunưóc, và một ngưòi là anh hùng, và một người trở thành anh hùng dân tộc khác xa nhau lắm! Ông đội Cấn, từng là Việt gian, tay sai thầy đội cho Pháp. Nhưng khi ông gặp được nhà ái quốc Lương Ngọc Quyến lúc ở nhà tù, do đội Cấn cai quản, chỉ cho con đường sáng vì đại nghĩa dân tộc, ông đội Cấn đã vượt một bưóc thật dài để làm chuyện phi thưòng: vất bỏ quyển lợi an nguy bản thân, gia đình vì lòng yêu nưóc, yêu dân tộc, nổi lên đánh lại Pháp- sau 3 tháng cầm cự, thế yếu ông tuẫn tiết-[5][1] Hành trạng “anh hùng” của ông ngắn ngủi nhưng giá trị tích cực lan khắp cả chiều dài, chiều ngang của lịch sử Việt Nam, nhân dân không ai không mến phục (Trừ Hồ ChíMinh và cha con nhà Ngô Đình Diệm.)
Đấy! Chúng ta thấy yêu nước chưa chắc đã là anh hùng dân tộc! Nhưng an h hùng dân tộc thì chắc chắn là đã yêu nưóc trước rồi! Vì vậy, muốn xét một ngưòi anh hùng nào có phải là anh hùng dân tộc hay không, trưóc tiên hãy cứ xét kẻ “anh hùng” đó có yêu nưóc, yêu dân không đã! Nếu đã không yêu nưóc yêu dân thì chẳng thể nào trở thành anh hùng dân tộc được nữa!
Vậy yêu nưóc là gì? Làm sao biết một ngưòi yêu nưóc? Bởi vì ai cũng nói yêu nưóc! Và chúng ta thưòng nghe những tranh luận biện minh rằng : “Tôi yêu nưóc cái cách của tôi! Anh, Chị yêu nước theo cách của anh chị, chớ gì mà cứ phê phán nhau!” Có thật sự lòng yêu nước khó biết đến vậy chăng?
Thật ra muốn biết ai yêu nưóc dễ ợt! Nhưng phải hiểu cái chữ "nước" này nó ở đâu ra trước đã!
Dĩ nhiên, Nước có nghĩa là Đất Nưóc, Quốc Gia, nhỏ thì đi từ trong ý niệm làng nước ra đến ngoài là cái quốc gia có lãnh thổ và chính quyền, nhưng khi nói yêu nưóc, “ái quốc” thì ý niệm Nưóc hay Quốc không ngưng lại ở chỗ này? Cụ Nguyễn Trãi dạy "lật thuyền mới thấy dân như nước"! Dẫu cụ có ý nói “sức tràn của nưóc” nhưng rõ chính "nước" là dân vậy.
Theo lý thuyết cổ đại của Việt Nam ta, xã tắc, hay quốc gia, không chỉ là một thực thể chính trị, nhà nưóc , lãnh thổ, mà nó bao gồm nhân dân, những cái gần cận sát da , sát thịt của “con ngưòi” là cái mái nhà của mỗi ngưòi. Mà khi nói “nhà” thì người Việt ta nói đến mình, nói đến những ngưòi thân yêu của mình sống dưói mái nhà ấy. Chứ không phải cái “nhà” bằng ngói, gạch xây đưọc, phá được hoặc bán được. Cho nên các cụ mình, vợ chồng mới gọi nhau là “mình ơi” và khi đề cập đến vợ hay chồng mình với ai thì nói “nhà tôi”.
Chính vì quan niệm nhân chủ như vậy, coi trọng con ngưòi như vậy mà trong Nho Giáo, Mạnh tử cũng nhấn mạnh “Dân vi quí, xã tác thứ chì quân vi khinh.” Dân quí trọng nhất, sau đó mới đến lãnh thổ, còn nhà nưóc, chế độ chính trị, thì xếp hạng bét! ( Khổ! Nói đến đây cứ muốn văng tục cho cái não trạng cờ vàng cờ đỏ, lằn ranh quốc cộng, chúng nó cứ bo bo coi nhà nưóc chế độ là quan trọng nhất và cứ hàm ơn lải nhải, nào là đã cưu mang, đã bảo bọc, đào tạo v.v và v.v thật là tối dạ, lạc hậu!!!) Mà ngay hiện nay trong quan niệm về dân chủ cũng như thế. Tất cả phải do dân, từ dân, và vì dân! Cho nên mới gọi chính quyền (legitimate authority), còn đã không phải do, từ dân, vì dân thì không chính đáng (illegitimate authority) chỉ là ngụy quyền! Vì thế chữ Nước,(quốc) là tổng hợp ba thành tố, chính quyền, lãnh thổ, nhân dân, mà trong đó nhân dân đứng hàng đầu!
“Cho nên yêu nước tức là phải yêu dân trưóc, yêu nưóc và yêu dân không thể tách rời. Cũng như khi nói tôi yêu mái nhà của tôi tức là tôi yêu những ngưòi cùng sống với tôi trong đó, là vợ chồng con cái, hay cha mẹ anh chị em của tôi. Chứ không phải yêu cái mái nhà lá, nhà ngói, tưòng gạch tưòng vôi v.v cái nhà vật thể có thể bỏ đi, bán đi hoặc cho thuê! Cái giới hạn của ngôn ngữ cụ thể, cũng như cái bao quát của ngôn ngữ trừu tượng, đặc biệt của Việt Nam ở chỗ này. Yêu nước, ái quốc, chữ nước, chữ quốc không còn chỉ mảnh giang sơn, lãnh thổ mà trên hết là người dân. Yêu nước tự nhiên, tự nó đã là yêu dân. Hay phải nói đúng hơn rằng phải yêu dân rồi mới yêu nước được. Như thế, không thể nói yêu nước nhưng không yêu dân được. Nếu không yêu dân mà nói yêu nước thì chỉ là cái yêu quyền, yêu lợi! Nói th ẳng ra là bốc phét!!!
Đất và nước là vật hữu hình, nhưng khi chữ “nước” nằm trong "lòng yêu", nó bao gồm tính trừu tượng tinh thần tổng hợp nhân, thần, và vật: nhân dân, quần chúng đứng hàng đầu. Sau đó mới là thần, thần nhân, thần vật, thần khí, ta gọi là hồn thiêng sông núi, sau cuối mới đến cơ chế chính quyền nhà cửa đất đai, vườn tược của mình. Nó mang theo những hành động cụ thể bắt buộc, vì "lòng yêu nước" không chỉ nói, phát ra từ phổi, mà bằng quả tim, khối óc. Có người nào yêu nước mà không bất bình khi thấy đồng bào mình bị ngoại nhân hành hạ khinh bỉ, đọa đầy. Có ai yêu nước lại có thể dửng dưng trước thảm cảnh khốn cùng của đồng bào mình? Trong Bình Ngô Đại Cáo, cụ Nguyễn Trãi đã diễn tả những cảnh khốn cùng của nhân dân từ lòng bất bình của một người yêu nước. Yêu nước tự nó đã có yêu dân, như dân chủ tự nó đã là đa đảng. Không thể nói yêu nước mà không yêu dân, cũng như không thể nói dân chủ mà độc đảng vậy. Cho nên hễ độc đảng tức là phi dân chủ, không tự do. Và hễ không yêu dân, ức hiếp dân, khinh dân, để dân đói khổ, lạc hậu tức là không yêu nước.”[6][2] Có ai đánh vợ mắng con, bỏ bê vợ con, ngoại tình, mèo mả gà đồng, hoặc bán vợ đợ con rồi mở miệng nói tôi yêu quí gia đình vợ chồng con cái tôi tôi không? Đấy chữ Gia trong Quốc Gia là Gia đình, là những ngưòi cùng với mình sống dưói cái mái nhà đó! Tức là “Con Người”. Không hiểu đưọc lý lẽ cơ bản này thì chui đầu vào nhà xí mà chết đi. Sống chật đất làm phí giờ ngưòi khác!!!
Hiểu những ý niệm cơ bản về Quốc Gia như vậy ta mới thấy rất là dễ dàng nhận định một ngưòi có yêu nưóc hay không! Cứ xét xem có yêu dân hay không? Một cá nhân Việt Nam bình thưòng không thể nói yêu nước Việt Nam, khi ôm thằng tây, con đầm mũi lõ mắt xanh thì cưòi toe toét, mà nhìn đồng bào của mình thì khinh khỉnh, soi mói, nghi ngờ! Tên tuổi Việt Nam mặc cảm không dám giữ, ngôn ngữ mẹ đẻ không biết! Ai chê Việt Nam thì hô hố cưòi theo, nói theo. Ai nói động đến nưóc Mỹ, nưóc Pháp, nưóc Úc, nước Đức, nước Nga, nước Tầu, thì xám mặt hung hăng giở trò bất nhân! Mà xét đến lãnh đạo và một chế độ có yêu dân hay không thì lại càng dễ hơn nữa!
Không thể nói yêu nước khi sẵn sàng dâng đất cho người ngoại bang và càng không thể nói yêu nước khi sẵn sàng đưa đàn bà con gái cho ngoại bang làm quà hay cùng vui chơi hưởng lạc với đồng minh, đồng chí trên thân xác nhân dân mình. Như cả hai chế độ Nam Bắc đều đã phạm. Đặc biệt anh em Diệm đã đưa cả "đoàn phụ nữ liên đới" của vợ Nhu đem làm quà cho khách ngoại quốc! Càng không thể đem xuất khẩu đồng bào mình để lấy vàng lấy ngoại tệ, như đám đầu lãnh CSVN đã tổ chức “vượt biên” hợp pháp! Rồi bây giờ xuất khẩu lao động kiểu đem con bỏ chợ!
Cũng không thể nói yêu nước khi thẳng tay cắt cổ, hành hạ đồng bào mình, đem đồng bào mình, những người nuôi nấng mình giúp đỡ mình ra đấu tố- Xúi dục tuổi trẻ chửi cha mắng mẹ chà đạp đạo lý Việt Nam; hoặc cùng ngoại nhân hay để mặc ngoại nhân hành hạ bắn giết đồng bào mình, bỏ bom đồng bào mình rồi vỗ tay ăn mừng chiến công chiến thắng. Yêu nước thì không thể đàn áp nhân dân vì niềm tin tôn giáo của họ được. Yêu nước thì không thể gian trá coi thường niềm tin linh thiêng của dân tộc, bất chấp ngày Tết, gây chiến tranh biến đêm giao thừa linh thiêng văn hiến thành ngày giỗ tang của hàng ngàn đồng bào mình như Mậu Thân được. Yêu nước lại không thể bắt bớ nhân sĩ khi người ta lên tiếng nói phê bình bất bạo động được. Yêu nước thì lại càng không thể ngoảnh mặt nhìn lính chiến ngoại nhân giết hại đồng bào của mình, rồi làm ngơ bưng bít, như Mỹ Lai được. Yêu nước lại càng không thể chấp nhận bom B52 cày nát nhà cửa của đồng bào mình, xác thân con em mình rồi vui mừng chiến thắng hay uất ức khi nó ngưng oanh tạc vì đã đủ nhu cầu chiến thuật của nó. Những cái "yêu nước" bệnh hoạn ấy nhân dân bẩn tai không muốn nghe, dơ mắt không muốn nhìn. Đấy có ai còn muốn hô hào “cụ Diệm” hay “bác Hồ” yêu nưóc nữa không? Có cần chứng minh nữa không? Cái lũ đầu tôm vong bản, tay sai tôi tớ ngoại bang này thì chắc vẫn chưa chịu nhìn nhận lãnh đạo của họ, chế độ của họ là tay sai bán nước đâu!!! Này muốn bàn rõ bằng cớ thì đây!
Bây giờ xét ông “giời con” Ngô Đình Diệm trước! Xem ông này có yêu dân hay không?
Ngô Đình Diệm.
Ai thích nghe những lòi tán tụng, thương nhớ ông “giời”, hoan hô VNCH, xin cứ tìm đọc những sách như của Phạm Văn Lưu (Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại Ngô Đình Diệm Bang Giao Việt Mỹ), Minh Võ (Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê), Nhóm Nghiên Cứu Sử Việt Cận và Hiện Đại –Santa-Clara, Cali, Mỹ (Việt Nam, cuộc chiến tranh Quốc Gia và Cộng Sản), Ngưyễn Văn Chức (Chính Sử) v.v Hoặc những tên tuổi khác như Phan Phát Huồn, Vũ Đình Hoạt, Vĩnh Phúc v.v hoặc kể cả tên bất lương, vô sỉ Tú Gàn Lữ Giang (Vô sỉ bất lương, nhưng có cờ vàng, lằn ranh mà! Cho nên vẫn có uy tín với một số người!!!)
Ai không thích “cụ Ngô” thích tìm “sự xấu” thì cũng xin tìm đọc những sách như của Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu, Nguyễn Mạnh Quang, Hương Bình Lê Hữu Đản, Cửu Long Lê Trọng Văn, Trần Văn Kha, và của ngay ông tu sĩ Cao Văn Luận, và nhất là những bài vở của nhóm Giao Điểm (Mấy ông thần giời này có nhiều sử chứng rất chính xác, nhưng bị cái bệnh tấn công tín ngưỡng người, ca ngợi tín ngưỡng mình, thành ra giảm giá trị và làm xấu hổ cả Thích Ca!!! Bởi vì ai đọc kinh Phật cũng biết trong kinh Kim Cương, Phật đã giải thích và cảnh cáo mọi người qua sự giải đáp với Văn Thù Bồ Tát rằng phải coi chừng loại ma vương Ba Tuần, nó hiện thân qua sáu ngả khác nhau, mà ngả thứ ba (3) và thứ sáu (6) là thưòng thấy trong giói chữ nghĩa khoa bảng!!! ( Ai không biết sáu loại này, xin tìm kinh Kim Cương mà đọc!!!)
Ở đây, tôi xin bỏ qua những liên hệ về cá nhân và xuất thân của ông Diệm như việc bố ông là Ngô Đình Khả leo lên địa vị nhờ làm thông ngôn cho Pháp và phục vụ thực dân cùng Nguyễn Thân đào mả cụ Phan Đình Phùng. Tôi cũng không bàn đến việc ông nhờ “ấm cha và ấm cha đỡ đầu là Nguyễn Hữu Bài” cũng như chính bản thân ông hết lòng tận tụy với Pháp trong buổi ban đầu tảo trừ, tra tấn phiến loạn “kháng chiến và cộng sản” để leo lên bậc thang “thượng thư” trước khi ngả theo Mỹ, hoặc chuyện đòi tư của ông bỏ bê và định thủ tiêu cả vợ con mà ông Hương Bình Lê Hữu Đản hay nhắc đến, hoặc vụ “tham lam” cái nghiên Tức Mặc Hầu mà cụ Vương Hồng Sển cũng nhắc đến. Tôi chỉ xét việc thương dân, yêu nước trong chín (9) năm cầm quyền.
Để sòng phẳng, phải nói, đối với những người di cư, đặc biệt là những người công giáo trong dịp theo “Đức Mẹ vào Nam”, họ nhớ ơn ông đã ra tay “tế độ”, cũng là việc đúng và thưòng tình! Nhưng cũng phải nói thêm chẳng phải vì ông thương dân lành lầm than bị Hồ Chí Minh đàn áp, mà ông và thế lực ngoại bang muốn lập cơ sở hậu thuẫn và củng cố quyền lực trước viễn ảnh có thể phải đối đầu với cuộc tổng tuyển cử năm 1956. Hơn nữa người trong Nam không hoàn toàn ủng hộ ông “vua dân chủ” của Lăng Đèo mỹ này. Như vậy với ông hậu thuẫn mạnh nhất vẫn là lực lưọng công giáo. Và vì thế ông đặc biệt “thương dân xóm đạo” rồi khinh thưòng nghi kỵ người Lương mà ngay linh mục Cao Văn Luận (Bên Giòng Lịch Sử) cũng không thể đồng ý- vì nó quá chướng và làm hại quốc gia. Ai đã đọc Đặng Chí Bình (Thép Đen) ắt sẽ thấy lòng tin và quyền lực của các linh mục xóm đạo đến mức nào trong thời ông Ngô Đình Diệm. Do đó những mâu thuẫn trong xã hội và sự việc đàn áp phật giáo xảy ra một phần lớn là từ sự “yêu dân” này. Ông bất chấp sụ kiện rằng 80% dân số Việt nam là phật tử, hiểu theo nghĩa thoáng, ông đã chỉ vì quyền lực và lòng tư riêng với niềm tin tôn giáo của mình và gia đình gây nên cảnh nồi da xáo thịt ngay trong nửa phần đất còn lại, mà lẽ ra, nếu thật sự vì đại nghĩa dân tộc, và có tài chính trị, ông đã phải cân bằng và hóa giải trong nỗ lực thật sự thực thi nền dân chủ để đối đầu với lực độc tài đảng trị tại miền Bắc. Ông không những thiên vị, coi thưòng, nghi kỵ người không công giáo mà còn vì quyền lực của mình và gia đình để anh em thao túng (Ngô Đình Thục, Vợ chồng Nhu, Cẩn) mà còn đàn áp bắt bớ thủ tiêu đối lập như Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Hồ Hữu Tưòng, Nguyễn Tường Tam v.v khiến cho sự đoàn kết quốc gia và nền tảng dân chủ không nẩy nở được, nhân tài không tham gia chính sự đuợc đúng mức.
Cơ hội tốt đẹp để có một nền dân chủ thật sự, tổng hợp đưọc sức lực miền Nam còn lại để chống với miền Bắc và giải phóng miền Bắc, sau những nỗ lực phá hoại của Pháp trước khi ra đi, đã bị não trạng quân quyền phong kiến của ông và gia đình ông bóp chết. Khi người Mỹ không thể dùng ông đưọc nữa vì những mâu thuẫn do chính não trạng và hành xử phong kiến của ông với những người chung quanh, Ông đã không nỗ lực vì quyền lợi quốc gia để hòa giải và thực thi dân chủ, quay qua quay lại, ông không còn hậu thuẫn, ngay cả một số người công giáo cũng không ủng hộ ông nữa, ông cũng không nghĩ đến giải pháp dân chủ là bầu cử lại để dân miền Nam thể hiện quyền dân chủ xét đoán việc làm của ông, và chọn chính quyền mới, ông lại quay ra thỏa hiệp với Hồ Chí Minh, một học trò tinh túy của chủ nghĩa đệ tam (ông Phan Nhật Nam nhận xét điều này rất chi tiết chuẩn xác (1973), lúc nào cũng sẵn sàng bán đứng nhân dân và đất nước. Theo thiển ý của tôi, là ông biết thừa Hồ Chí Minh là ai rồi, vì hai người có gặp nhau, đối đáp khi ông bị Hồ Chí Minh bắt rồi sau đó thả! Ông chỉ lầm mầu , làm mình làm mẩy với Mỹ, với những người yêu nước khác, ra cái điều không theo tôi, ủng hộ tôi, tôi chơi với VC cho mà xem!!! Chứ không phải vì nền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ chủ quyền của đất nước, không muốn làm tay sai Mỹ, hay tránh cho nhân dân cảnh chinh chiến tương tàn! Vì nếu thật như vậy và được như vậy, thì quả nhiên Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh quả thật là thương dân yêu nước, có tự trọng dân tộc, và thật sự là anh hùng dân tộc vĩ đại!!!
Nhưng cay đắng lắm đồng bào ơi! Ông Diệm (và HCMinh) chỉ nghĩ đến mình, đảng của mình, coi thường và không trọng ý kiến, nguyện vọng người dân! Tự coi mình là chủ của quốc gia, mà quốc gia chỉ là tài sản của riêng mình, gia đình mình, đảng mình theo kiểu phong kiến. Hậu quả không thể tránh đưọc là cuộc đảo chính thoán quyền do Mỹ cầm đầu, và miền Nam lại rơi vào tình trạng ngụy quyền quân phiệt làm tay sai cho Mỹ đến khi CSVN mạnh hơn, thống nhất đất nước vào năm 1975.
Như vậy ông yêu nước ở chỗ nào? Ông làm sao yêu nước được khi lòng yêu dân không có? Ông Trần Trung Dung có kể lại câu chuyện ông đi kinh lý, bắt các học sinh làm dàn chào chờ đợi ông trong nắng nôi ,có nhiều em đã ngất xỉu. Thế mà khi ông Trần Trung Dung “rụt rè, khúm núm” báo cho ông biết để “tha” cho các em nhỏ, ông đã ngắn gọn trả lời ý là làm tổng thống cũng như làm vua thôi! Dân phải phục dịch có chết cũng đã sao? Đấy, một con người mà khệnh khạng như ông vua như vậy, coi thưòng các định chế dân chủ, xem mạng người dân trẻ thơ không ra gì như vậy, mà bảo rằng có dân chủ, có yêu nước, có thương dân thì quả thật chữ nghĩa tăm tối hay cái óc phe phái hàm ơn nó đồi bại đến cùng cực???!!! Tôi xin tạm ngừng ở đây để quí độc giả yêu ghét thẩm định, để xin bàn qua “bác Hồ” yêu nước, thương dân, anh hùng dân tộc!
Hồ Chí Minh.
Cũng sòng phẳng như bàn về ông Diệm, tôi không bàn về việc riêng xuất xứ của ông Hồ như Trần Quốc Vưọng và nhiều người đã bàn, chẳng hạn như việc ông “ôm cháu gái” Nông Thị Xuân, ăn ở đã có con, rồi vì “phương diện quốc gia”, để cho thuốc cấp cưỡng hiếp đập đầu giết chết một cách tàn bạo, nghiệt ác; đến cả con ruột (Nguyễn Tất Trung, con của bà Nông thị Xuân và Ông) cũng không nhận nuôi phải lưu lạc! Hay nghi án bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp, hoặc việc tự viết sách khen mình với cái tên Trần Dân Tiên v.v Tôi chỉ bàn đến hành trạng có liên quan trực tiếp đến việc điều hành trị nước cai dân của ông.
Khởi đầu phải nới đến cái “anh nho nhỏ hốc hác” yêu nước, len lỏi xấn vào buổi hội nghị Vẹc Xây 1919 để đưa kiến nghị..
1- Thả tự do tất các tội phạm chính trị bản xứ;
2- Thay đổi hệ thống công lý để bảo đảm quyền tư pháp ngang bằng cho người Viẹt Nam như người Âu Châu, và sự đàn áp của các Tòa án mà thật ra chỉ là công cụ khủng bố và áp búc chống lại nhân dân Việt Nam lương thiện;
3- Đưọc Tự Do Báo Chí và Tự Do Phát Biểu Ý Kiến;
4- Được Tự Do Hội Họp và Lập Hội;
5- Tự Do Vãng Lai, Cư Trú, và Du Lịch;
6- Tự Do giáo dục học hỏi, phát triển kỹ nghệ, thương mại, nghề nghiệp;
7- Thay thế chế độ cai trị bằng sắc lệnh bằng chế độ pháp trị;
8- Được (Tự Do)Tuyển cử đại biểu thưòng trực của nhân dân Viêt Nam ở Quốc Hội Pháp để có tiếng nói đại diện và bảo vệ quyền lợi của người Việt Nam.
….. Thay mặt nhóm người Việt Yêu Nước.
Ký Tên Nguyễn Ái Quấc (Không phải Quốc!)[7][1][1]
Cứ xét cho công bằng theo tình thần kiến nghị thì quả thật “anh chàng” này yêu nước, yêu dân!!! Đòi hỏi chính đáng cho đồng bào anh ngay trên “đất địch”, đất tương đối có tự do phát biểu- Thế nhưng….26 năm sau, khi anh trở thành “Bác” ở tuổi ngoài 50, nắm quyền, có cơ hội đại đoàn kết toàn dân Việt nam chống Pháp, Ông đã trở thành tay sai ngoại bang, giết hại đồng bào chiến hữu để độc quyền áp đặt chủ nghĩa cộng sản. Cái cơ hội tốt đẹp đại đoàn kết toàn dân, ông đứng đầu và chính ông phá vỡ. Cũng như ông Diệm ép người ta theo mình, đứng dưói cờ, dưói trưóng của mình không đưọc đâm thù vặt giết hại thủ tiêu! Ngay tại thời điểm này ông không coi tiền đồ độc lập tự do dân chủ là chủ đích, sinh mạng nhân dân là quan trọng, mà chỉ là làm sao nắm quyền để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, mà chính miệng ông nói ra rằng ông chẳng có tư tưỏng gì, những cái hay đẹp chân lý, LêNin và Mao đã có sẵn cho ông!:
"Có đồng chí còn nói: hay là ta viết tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh có phải hay không! Câu nói của tôi, làm cho mắt ông già (HCM) rạng lên theo lời đáp cấp kỳ:
-Không, tôi không có tư tưởng ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin. Tôi chỉ có phương pháp để giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta. Như tôi thường nói: lạt mềm buộc chặt đó là phương pháp cột cái gì đó của tôi.(Ông cột không được "cái gì đó", nên mới gieo hoạ cho Nông Thị Xuân. Người viết , NK chú thích). Mà cho đến phương pháp như vậy thì cũng có sự chỉ biểu của phương pháp biện chứng. Chớ còn tư tưởng là quan niệm về vũ trụ về thế giới và về xã hội con người, thì tôi chỉ là học trò của Mác, Ang-ghen, Lênin, chớ làm gì tôi có tư tưởng ngoài triết học Mác.
(Vấn đề này đang có tính thời sự. May sao đồng chí Việt kiều Thái Lan, Lê Quang Lơ hãy còn đó mà làm chứng cho tôi). (Chú thích của Ông bảy Trấn).... (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Chưong -Gặp Bác Hồ).
Khi lên tột đỉnh quyền uy, ông vẽ ra lằn ranh vô sản, theo lời cố vấn của Tầu, đem đồng bào nhân dân ra đấu tố, đấu tranh giai cấp, tàn sát kể cả những người từng theo ông, giúp ông, nuôi nấng che chở đám cách mạng của ông, chỉ vì người ta yêu nước, yêu độc lập dân chủ và tự do. Cái khốn nạn hơn là Ông đã hợp pháp hoá hành động bạo ngưọc tàn hại văn hóa đạo lý Việt Nam khi cổ võ cho những đưá con, cháu, vuốt ngược tóc chửi mắng tố cáo anh chị, cha mẹ, ông bà của mình! Thật là một thảm họa đẫm máu chưa từng thấy của cả dân tộc Việt Nam trong suốt hơn 4 ngàn năm hiện hữu!
Đã thế ông nuốt luôn cái tám điểm (8) ông nhân danh dân tộc Việt Nam đòi hởi từ tay thực dân Pháp. Ông tự biến Ông thành một vị vua, cha già dân tộc, đảng CSVN của ông, thành một hoàng tộc phong kiến, tập quyền! Cứ nghe sự hiểu biết và lý giải của ông về dânchủ với trai trẻ thanh niên thời bấy giờ do ông Bẩy Trấn thuật lại thì rõ ràng hết cách bào chữa:
"Bác không đi vào những vấn đề nêu trên bích báo. Sa chân vào đó thì ra sao được. Nhưng cũng không khỏi nói tới bích báo hỏi Dân chủ tập trung là gì?.
Có lẽ là vì bích báo hỏi nên Bác trả lời với lời văn bích báo:
-Như các cô, các chú có đồ đạc, tài sản gì đó ,thì các chú các cô là chủ, đó là dân chủ. Các chú các cô không biết giữ, tôi giữ dùm cho. Tôi tập trung bỏ vào rương. Tôi khóa lại và bỏ chìa khóa vào túi tôi đây. Đó là tập trung!
Trong hội trường phía học viên, lặng trang. Phía công nhân viên, cười ì xèo. Bác ra về. Tôi lốc thốc theo đưa. Bác hỏi:
-Tôi nói như vậy có được không?
-Dạ thưa, Bác nói thì thôi!
Tất nhiên là bích báo cứ vô tình tường thuật. Tôi xin không kể lại. Vì là: Bác đã nói thì thôi!.
(Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Chưong -Gặp Bác Hồ).
Cá nhân ông Hồ, ông tiến hành việc chống Pháp như là một bổn phận, một bưóc đầu của lý tưỏng vô sản quốc tế theo bài bản ba giòng thác cách mạng, mà giòng thác “giải phóng dân tộc” chỉ là chặng đường đầu tiên theo biểu quyết của khuynh hưóng đệ tam quốc tế. Chính ông Hồ đã xác nhận điều này và đã đưọc “lịch sử Đảng” ghi nhận “ .. Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ..”[8][2]
Ngoài những việc rõ ràng này ra, những hành xử bán nước như ký với Trung Cộng vào năm 1957, và cuộc tấn công gây máu đổ cho dân tộc vào đêm giao thừa linh thiêng văn hiến tết Mậu thân, tôi không kể ở đây.. Vì có phần thao túng lớn của Lê Duẫn, Lê Đức Thọ. Nhưng với cương vị chủ tịch Đảng, người uy tín nhất nước “Bắc” thì “Bác” không thể nói là vô can.
Kết luân lại, khi nói về hai ông “thần gìời” này, khó có thể chối bỏ đưọc là họ kiệt xuất trong thủ đoạn chính trị, bản lãnh lì lợm, đáng là anh hùng, vì hai ông hơn hẳn thiên hạ và những người đồng thời. Cũng như Nguyễn Nhạc và Nguyễn Hữu Chỉnh vậy. Nhưng bảo là yêu nước thương dân, vì đại nghĩa dân tộc, tạo công đức cho dân tộc, và là anh hùng dân tộc thì rõ là hàm hồ lạm dụng chữ nghĩa, cưỡng lý đoạt từ!
Yêu nước nhưng không yêu dân chỉ là ngụy biện, cái yêu đất nước ấy là yêu vật, vô lương, bất nhân. Coi đất nước là một sở hữu, để tranh giành, cái yêu ấy nó giống như yêu tiền của những tên tư bản trọc phú, những tên mị dân độc tài yêu quyền lực. Như những đấng "anh hùng" yêu giang sơn trong cuộc "đuổi hươu", tranh giành quyền lực như Trịnh Nguyễn. Thế thôi. Cái lối chơi chữ "nghịch hợp" Tây Phương không nằm được trong ngôn ngữ tinh thần súc tích của tiếng Việt được. Ai cũng có thể nói yêu nước, nhưng muốn biết cứ nhìn vào đời sống nhân dân, sự phát triển của đất nước thì rõ không cần tranh cãi. Hiện trạng Việt Nam từ nửa thế kỷ nay cho đến bây giờ không chứng nhận bất cứ bọn cầm quyền nào là yêu nước cả.
Cái lý luận yêu nước không cần yêu dân nó có tự lúc nào vậy? Một kẻ bắt dân yêu mình, một đứa bịp dân, bắt dân yêu mình! Đều được ca ngợi yêu nước, anh hùng dân tộ c. chữ nghĩa nó tối tăm, khốn nạn hay đầu óc những kẻ cầm bút nhơ bẩn, nô lệ!
Đưọc như Đức Quang Trung hay như cụ Phan Đình Phùng khi phải đối diện với sự chọn lựa giữa quyền lợi bản thân, êm ấm gia đình, và đại nghĩa đất nước dân tộc, khi kẻ thù và tay sai Việt Gian đào mả giòng họ cha mẹ để buộc cụ đầu hàng, cụ đã cương quyết trả lời:
"Ta chỉ có một ngôi mả rất to phải giữ, đó là nước Việt Nam, người bà con rất to phải cứu, đó là mấy mươi triệu đồng bào. Về sửa sang phần mộ của mình, ai sẽ lo ngôi mộ cả nước? Về để cứu lấy bà con, ai sẽ lo cho bao nhiêu triệu người anh em khác? Ta thề chỉ có một cái chết mà thôi." (Phan Đình Phùng.)
Ai dám đặt câu hỏi, hay chối bỏ cụ Phan Đình Phùng yêu nước thưong dân, vì đại nghĩa dân tộc; và ai dám không chấp nhận cụ là Anh hùng dân tộc của giòng Lạc Hồng bất khuất này? ( Có lẽ có Nguyễn Gia Kiểng chăng???)
Nhìn Lại Những Bến Bờ: Hôm Qua và Ngày Nay!
Trong dự định viết chưong kết của bài viết này, tôi muốn nói rất nhiều, thật nhiều với đồng bào của tôi khắp bốn phương trời, và muốn nói thật nhiều hơn nữa với những đồng bào trẻ của tôi trong nước. Tôi muốn nói hết, nói sạch, nói trắng, nói toạc ra những gì tôi biết, thấy, nghe, và đã kinh qua. Đúng hay sai, đầy đủ hay thiếu sót, đồng bào của tôi sẽ tự thấy và có kết luận riêng. Bổn phận của tôi chỉ là nói hết, dàn trải hết bằng tâm tình của mình, bằng tình tự của mình đối với đất nước. Nhưng đã bao nhiêu lần ngồi xuống, rồi lại phải đứng lên… Bao nhiêu việc dồn dập kéo đến, ngày tuyên án, rồi kỷ niệm hiệp định chia cắt đất nước..thêm những ồn ào không đâu từ thềm quốc hội Mỹ việc nhân quyền nhân quéo.. Tôi muốn nán lại vài tuần để có thể nhìn đưọc tất cả những diễn biến ấy một cách rõ rệt và bình thưòng. Vì dù muốn hay không muốn, tất cả những dự kiện ấy cũng có những ảnh huởng ít nhiều đến việc những đồng bào mình bên kia bờ đại dương xa tít và chính mình đang làm.
Tôi muốn có một khoảng thời gian trong một không gian rộng hơn một tí để lòng mình lắng đọng, và trên hết là để mối tình tự dân tộc trong lòng mình lan xa, thật xa đến mức có thể đưọc với mong mỏi mình nghe đưọc thêm tiếng lòng của những đồng bào khác đang còn sống hôm nay, và từ những anh linh còn vưong víu vói trăn trở của đất nước từ chín kiếp chim Hồng, chim Lạc, dẫu là ngập ngừng vọng về theo những âm vang trống đồng rạn vỡ thấu suốt màn đêm tha phưong dày đặc này.
Tôi đã thức thật khuya để trao đổi, đối thoại với đồng bào mình qua giọng nói, qua chữ viết! Kể cả trước khi trí não mình lẻn vào giấc ngủ; tôi đã hình dung ra những hoạt cảnh của quá khứ dân tộc, đặt bản thân mình vào hoàn cảnh của đồng bào mình trong sương khói thời gian của lịch sử, bối cảnh là những ẩn hiện đòn vọt trên thân xác nhọc nhằn của đời nô lệ. Bởi tôi muốn thâm cảm cùng những mảng da vàng Lạc Việt còn vất vưởng ngập ngừng không đành đoạn với thân xác đã khô máu của tiền nhân, vị mặn của bồ hôi đồng bào cùng cực, và nỗi đau đớn của máu xương dân tộc.. Những thứ đã chộn thành cơn cuồng phong, hun đúc từ nỗi tủi nhục, từ lòng bất khuất, đã trỗi dậy tràn đi bằng hy vọng, với niềm tin vào nhau, cho nhau, của nhau, rồi cùng nhau chấp nhận rũ áo vợ chồng ân nghĩa gối chăn, tình thưong con cái, bổn phận mẹ cha, ấm êm chăn gối, mà ngưóc mặt chấp nhận cảnh ngập trời lửa đạn đao binh. Tôi muốn hiểu tâm tư đồng bào minh, khát vọng dân tộc mình đến nơi đến chốn! Những tâm tư cùng khát vọng đã dẫn đưa đến những hành động và quyết định trong lịch sử và ngay hôm nay của dân tộc tôi! Chỉ có thế thôi!
Vì thế tôi đã không viết sử, và chẳng bao giờ còn khả năng viết sử! Bởi viết sử phải “khoa học, khách quan”, “khoa học khách quan” như những tên Tây da trắng tóc hoe vẫn thưòng làm: cẩn thận lựa chọn nhặt những mảnh vụn sự kiện rải rác theo thời gian, mày mò ráp nối, tính toán cộng trừ những xác chết đôi bên, xếp đặt lại cho ăn khớp với những văn thư, lời nói của lãnh tụ, của ngoại giao từ năm bẩy phía ….nhưng “không đưọc phép” nắm bắt, và không thể nắm bắt đưọc tình tự của con người Việt Nam trong đó- Cho nên “sử gia” làm tất cả sao cho ra một bức tranh toàn cảnh lịch sử với những lỗ hổng vẫn còn thấp thoáng bóng của quá khứ kì kèo phải trái mà chẳng bào giờ làm đầy tròn đưọc nữa! Cũng vì như vậy mà tôi không dám viết sử, mà đi vào lịch sử, nhìn lại lịch sử của dân tộc mình bằng tâm tình Ngũ Lĩnh, cõi lòng Âu Lạc, để tìm hình bóng đồng bào tổ tiên, dân tộc của mình. Mà hành trang soi dẫn cơ bản và cần thiết nhất trong tôi, vẫn chỉ là tình tự dân tộc.
Chỉ có tình tự của dân tộc mới cho tôi vưọt lên trên đưọc mặc cảm tự ti với nền văn minh đồ sộ của người khác, mới cho tôi súc mạnh và tự tin để tách khỏi sự cầu cạnh vay mưọn hào quang, mực thưóc của người mà đo đếm quá khứ, hiện tại, và tương lai của đồng bào, đất nước dân tộc mình. Tình tự dân tộc mới cho tôi sự sáng suốt vượt lên trên và nhìn thấu qua đưọc những hỏa mù của định kiến phe phái ảnh hưỏng ngoại bang; mới cho tôi sự yêu mến thân thương, gần cận chia sẻ với đồng bào của mình dẫu có nghèo nàn, hem hễ, lạc hậu, hoặc nhếch nhác đến đâu đi chăng nữa!
Chỉ có tình tự dân tộc mới cho tôi cái huệ nhãn để nhìn lại thân xác tan tác và linh hồn tức tưỏi của đồng bào tôi nơi Đồng Xoài, rữa nát oan khiên nơi mồ chôn ở Huế; trơ vơ, hãi hùng trên nóc nhà thành phố giữa ngày tết Mậu Thân; những thân xác nhầy nhụa oan khuất trong đường mương Mỹ Lai; hãi hùng bi thảm trên đường phố Khâm Thiên; bàng hoàng không nhắm mắt dưới đống gạch vụn bệnh viện Bạch Mai! Chỉ có tình tự Việt nam, dẫu cho có thể mơ màng và đôi lúc bàng bạc khó nhận định, nhưng tình tự ấy mới cho tôi lòng can đảm nhìn ra xác thân đồng bào tôi sõng xoài phiền muộn trong chiến hào Khe Sanh, Bình Long, Công Tum, hay những mảnh vụn thân xác đồng bào tôi nơi đường mòn Trưòng Sơn sau những trận mưa bom định kỳ chiến lược.
Và cũng chỉ có tình tự Việt Nam mới cho tôi lòng tri ân sâu xa, sự cảm tạ chân thành những thân xác đồng bào tôi dù gầy còm thiếu thốn, nhưng dáng nằm hiên ngang ngạo nghễ nơi Điện Biên 1954, mà lòng quyết chí bức xích xiềng nô lệ khát khao độc lập còn trải dài theo giòng sống của dân tộc tôi hôm nay; những xác thân lềnh bềnh nổi trôi và chìm đắm mang theo nỗi lòng giằng giặc đại nghĩa bảo vệ quê hương khôn nguôi giữa lòng nước mặn của biển Đông năm 1974; và những thân xác đồng bào nằm ngang dọc với nét mặt còn tươi sáng niềm hào khí bảo vệ giang sơn nơi biên giói Việt Hoa năm 1979.
Tình tự Việt Nam đã cho tôi khả năng và sự sáng suốt trên con đường tìm lại thân xác đồng bào mình mà chẳng quan tâm đến phù hiệu mầu áo quân nhân, mầu cờ, quan điểm chính trị, hoặc căn cưóc chế độ nào nữa! Bởi những máu xưong, tâm trí ấy có chung một mẫu số Việt Nam!
Tình tự Việt Nam đã làm cho lòng tôi trải dài Nam Bắc, vượt qua biên giới hư cấu, để thấy đưọc trên từng xác chết của đồng bào mình, trên những nét mặt đã bạc phếch sự sống, bùn đất đã che bớt hình hài, nhưng vẫn còn đọng lại nơi vầng trán, trên đôi môi thâm mím lệch lạc, hàm răng hớ hênh lạc lõng, hay trong ánh măt tuyệt vọng đã nhắm, hoặc còn trừng trừng uẩn ức ngạc kinh…Tất cả vẫn đầy những giấc mơ đã tan vỡ cho bản thân, niềm dấu yêu cho người tình, những hứa hẹn cho gia đình đã đành đoạn, và nỗi thống hận vì khát vọng cho đât nước cùng dân tộc đã dang dở…. chứ tôi chẳng hề thấy chỉ dấu nào của họ còn lại vì quan điểm, chủ nghĩa chính trị, hay cái gì đó thuộc về hoặc dành cho đồng minh, đồng chí nơi lá cờ xanh đỏ vàng đen. Cái di sản chung, tài sản chung, ưóc mơ chung của họ, của tất cả những người Việt Nam nằm xuống là giải giang sơn Việt Nam, tương lai hạnh phúc dân tộc Việt Nam! Tôi đã thấy và chỉ thấy có như thế thôi!
Không, không phải tôi chỉ nhìn đưọc, thấy đuợc có như thế thôi đâu các bạn ạ! Tôi thành thật xin lỗi! Tôi đã nói thiếu, thiếu một điều quan trọng mà tôi cũng đã nhìn đưọc từ thân xác đồng bào mình. Điều mà nếu không nói ra chắc chắn tôi sẽ có tội rất lớn với những người đã nằm xuống, và trở thành bất nghĩa, bất nhân với ngay cả những người còn sống sót hôm nay.
Phải nói cho đúng là không phải tôi thấy, mà tôi đã nghe những đưọc lời nhắn nhủ thiết tha của những người Việt Nam đã nằm xuống kể từ dạo ấy! Không rõ là từ lúc nào, nhưng những lời thê lương ấy cứ văng vẳng theo cánh chim Hồng chim Lạc từ xa xăm, lã chã những giọt nước từ hồ Động Đình rót vào trong giấc ngủ. Đôi lúc dồn dập, chập chùng lẫn trong tiếng trống đồng khắc khoải. mà chỉ có tình tự Việt Nam, sợi giây giao cảm của hơn bốn ngàn năm mới lắng nghe rõ đưọc. Họ nhắn gửi tha thiết về thảm họa tương tàn từ những toan tính tráo trở, những âm mưu ẩn tàng tay sai ngoại bang khoác áo chính nghĩa tự do dân chủ, nhân danh độc lập đất nước!
Nếu lịch sử quả là sự tái diễn sự việc cũ trong hoàn cảnh mới, thì thật là hãi hùng! Vì những điều hay, đoạn đời đẹp, hạnh phúc nhân bản lại thưòng ít tái diễn hơn là những nhơ bẩn của thủ đoạn và bi thảm hoang tàn khốc liệt! Với cận sử và hiện sử của dân tộc mình, thì đó là thảm trạng lằn ranh chính trị.
Cái lằn ranh oan khiên khốn nạn này đã đưọc những não trạng quyền bính tay sai phá vỡ và làm mất những cơ hội vươn lên của đất nước mình. Trong chập chờn bi thiết của màn đêm lịch sử Việt nam, những anh linh uổng tử của đồng bào Việt Nam đã cố gắng thở hết tàn lực cách biệt âm dương để gào lên về bi kịch 1945 –Tình đại đoàn kết dân tộc bị bức tử. Sau gần 100 năm đô hộ, tài sản đất nước đã hao mòn, nhân lực đã suy nhược. Cơ hội ngàn năm tưỏng chừng như trong mơ đã thành sự thật. Dân tộc cùng đoàn kết dành độc lập mở hội khai quang cho tương lai dân tộc. Khốn nạn thay, mưòi sáu nhân vật đầu nước lúc ấy đã chỉ có lòng riêng tư phe phái chính trị, định kiến chủ nghĩa, đã không những phá nát cơ hội tốt đẹp của đất nước mà còn dẫn đưa ngoại bang, vốn đã sẵn rình rập, bày binh bố trận cho một cuộc Viêt Nam tương tàn khốc liệt. Những màn ám toán thủ tiêu lẫn nhau đã xảy ra từng ngày trong khi kẻ thù ngoại bang vẫn còn trước mặt. Cái khốn nạn ấy dẫn đưa đến điều tồi bại không thể tránh được:
1954- chiến thắng Điện Biên Phủ, mà trong khói lửa đầy thịt xương của trận địa đôi bên, ngoài những xác chết ngoại nhân, đều có thân xác của người Việt Nam cùng giòng máu! Đau đớn và tủi nhục chưa hết- Lý tưỏng chính trị và lằn ranh chủ nghĩa đã được nhân danh, chính đáng hóa sự phản bội xưong máu và nguyện vọng dân tộc độc lập tự do. Xương máu của nhân dân kháng chiến chưa khô mà đòn thù chính trị ập đến! Nó ập đến bỉ ổi từ chính đồng bào, đồng chí của nhau, những kẻ bước lên danh vọng quyền lực bằng nước mắt, mồ hôi, xương máu của nhân dân, đã dàn dựng đạo diễn thảm trạng đấu tố đồng bào mình thật trâng tráo! Thảm trạng này không những khiến đất nước suy nhựợc thêm mà còn tàn hủy nền móng văn hóa đạo lý dân tộc: tình cảm, văn hóa cư xử giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, bạn bè làng xóm mới hôm qua còn khắn khít trong tình thần toàn dân kháng chiến… mà hôm nay tất cả vỡ nát trong sớm chiều –Ôi quan điểm chính trị, lập trưòng chính trị, đồng minh, đồng chí, những đốn mạt không dừng lại ở đấy!
-1956 ngày hiệp thương tuyển cử mơ ưóc của mọi người đã bị âm mưu của ngoại nhân cùng tay sai hai bên phản bội. Ưóc vọng thống nhất trong dân chủ tự do của nhân dân Việt Nammột lần nữa lại bị giết! Và luôn luôn bị giết chết trước lúc trào đời. Thống nhất, độc lập tự do dân chủ, cuối cùng nó chỉ là sự hứa hẹn, sắp xếp đẹp đẽ của những phe phái chính trị trong ngoài. Nó đưọc hình thành chẳng qua như một cái bào thai hoang của đám lãnh tụ, lãnh đạo phe phái, những ả điếm chính trị Việt Nam lang chạ, ăn ngủ lén lút với những “nhân tình” ngoại bang, mà đến cái ngày chào đời không mong đợi, chỉ là một dị dạng lai căng, hậu quả từ những liều thuốc ngừa thai chính trị, hoặc phá thai chính trị vội vã trong âm mưu lừa bịp Đại Gia Đình Việt Nam từ quá khứ! Đấy, hai cái chế độ Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và Việt Nam Cộng Hòa được đẻ ra đúng là như vậy! Nó không phải là kết quả của một cuộc cưỡng dâm, mà chính là sự đồng tình gian dâm vụng trộm chính trị của những đứa con Việt Nam mê quyền ham của, lừa bịp hèn hạ cả Đại Gia Đình Việt Nam.
Điều cay nghiệt là đồng bào tôi, cái gia đình Việt Nam vốn nghèo khó, bị buộc phải dùng mồ hôi xương máu, xác thân đã rạc roài của chính mình để nuôi dưỡng những đưá con lai “dân chủ, cộng hòa” dị dạng mà cha ngoại bang và mẹ đĩ lãnh tụ lằn ranh chính trị Việt Nam đẻ ra! Nhục nhã nhất là vẫn còn nhiều người Việt Nam lại tưởng là con đẻ của dân tộc mình, đem hết tình tự nâng niu nó, thù nhau giết nhau vì nó, cho nó, điển hình là hành động tàn bạo đã giết chết oan nghiệt đứa con dân chủ Nhân Văn Giai Phẩm vì nó! Trong khi nó chỉ càng ngày càng phá hoại gia cang xã tắc suốt Nam chí Bắc để thỏa mãn cho những đứa “cha” ngoại bang và các bà mẹ đĩ chính trị Việt Nam: Nhưòng biên giới lãnh thổ (1957), giết hại nhân tài yêu dân chủ (NVGP)- ám sát thủ tiêu đối lập, tiếng nói dân chủ (nhân sự đảng phái không cộng sản miền Nam)- cố vấn ngoại bang khệnh khạng, quân đội đồng minh lộng quyền, hiếp dâm, con lai, càn quét thảm sát thôn làng Việt Nam, đảo lộn đòi sống Viêt Nam.
Ôi có nỗi đau nào thấu tim động trời đến thế này không? Nhân dân Việt Nam vừa cùng nhau vưọt thoát gông cùm ngoại nhân, lại bị ngay những đưá con trong nhà gian dâm với cựu thù, còng cổ, đè lưng khóa miệng hành hạ ngưọc đãi! Có nỗi nhục nào hơn nỗi nhục này không?
Suốt trong thời gian ấy, chẳng còn lãnh tụ, lãnh đạo nào nhìn xuống nhân dân nữa- mạnh ngưòi nào kẻ nấy cấu kết với ngoại bang để giữ quyền, và tranh quyền nhau bằng đầu gối trên thềm ngoài, trong sân trưóng phủ của ngoại nhân.Và thế là sự lũng đoạn của ngoại bang tràn khắp. Nhân dân Việt Nam bị lôi kéo dàn trận giết nhau trong 20 năm, tài sản tài nguyên mất mát với trên dưói 4 triệu nhân mạng, không kể đến những ấn dấu mất mát đau thưong còn lại nơi những cuộc đời sống sót không toàn vẹn- Thay vì 20 năm ấy với 4 triệu người được an vui, nhiệt lòng miệt mài xây dựng và phát triển đất nước!!!
-Chủ nghĩa, lằn ranh chính trị, tiền đồn lý tưởng! lại cũng tên con lai, con rơi tội đồ này nữa! 20 năm ưóc mơ hòa bình thống nhất đã đến, dù đến bằng lửa đạn tương tàn. Đã tưong tàn thì một bên sẽ thắng, chỉ là chậm trễ 20 năm- 30-4-1975! Nhân dân cũng mừng vui dẫu rằng trong nước mắt của oan khiên thấm xuống nụ cưòi vội vỡ. Vì sự bội phản khốn nạn của lãnh đạo đầy căm thù lằn ranh chủ nghĩa- Niềm tin thống nhất hòa bình hòa giải để xây dựng không thể thở hết đưọc một giây- Lòng căm thù, thói u mê ngạo mạn quyền bính bạo ngược lại tiếp tục phá vỡ hy vọng của nhân dân, phung phí xương máu đồng bào, hủy hoại tiềm lực kinh tế dân tộc bằng những trận đánh tư sản, lừa bịp lừa dân vào những “trại cải tạo”, “kinh tế mới”… phung phí nhận lực nhân mạng tài sản đồng bào, vốn đã kiệt quệ đau thương sau 20 năm- Lằn ranh nuôi dưỡng bằng căm thù, định kiến chủ nghĩa chính trị chỉ xây đắp thêm hờn oán, hận thù, chia rẽ và nghèo khổ… mà lẽ ra đã phải đưọc hòa giải trong bao dung tình tự của nhân bản, yêu thương của tình dân tộc để cùng nhau xây dựng phát triển, bắt kịp với thế giới sau những đau thương mất mát, tang tóc, chia ly của cuộc chiến tranh tương tàn.
Nỗi đau dân tộc này không chỉ còn là sự cay đắng mất mát, nó trở thành niềm tủi hổ, sự điếm nhục như đa số đã đau khổ nhìn thấy. Họ đã nhìn thấy và gióng tiếng nói chân thật, cặm cụi viết những giòng chữ kiến nghị thiết tha kêu gọi anh chị em hãy tỉnh lại, giết chết đứa con lai dị dạng: cơ chế độc tài phong kiến tập quyền, lằn ranh chủ nghĩa chính trị lập trường… và trả lại sự hạnh phúc thanh khiết tôn kính quyền làm chủ cho đại gia đình Việt Nam.
-1990 cơ hội của ăn năn thống hối tưởng đã đến! Khi một tên trong những tên nhân tình ngoại bang, Liên Xô, lăn đùng ra tắt thở! Và những tên nhân tình kia (Mỹ- Hoa), mặt nạ cũng rớt rơi, thiên hạ đã thấy chỉ là những tên thương buôn mặt trơ trán bóng, đểu cáng và bần tiện. Nhưng những con điếm chính trị đã không còn nhân tính, mất hết tình tự- sự đam mê quyền lực của cải riêng tư đã ngự trị thành thói quen, bản chất. Mà, rõ mặt chính là những tên tôi tớ của ngoại bang! Ngưòi ngưòi yêu nước thay nhau bị bắt bớ tù đầy. Nhưng càng bắt bớ, càng lộ khuôn mặt ghê tởm sau lớp phấn son chính trị rữa nát, và ngưòi dân chủ chân chính càng lớn mạnh!
Hiện trạng tất cả trong và ngoài cho đến nay vẫn cứ chỉ là sự lập lại của u mê, bạo ngược, nhân danh mỹ từ vụng về trong cung cách che dấu của hận thù oan khiên nghiệt ngã, của kênh kiệu đểu cáng, của gian manh dối trá. Và lằn ranh chính trị phân chia vẫn còn đến hôm nay. Tất cả như một cơn ác mộng dài mà con người Việt Nam chưa tỉnh! Và những con “đĩ rạc chính trị” của hai bên, thay vì soi gương nhìn lại nhân dạng thật sự của họ sau lớp phấn son mốc thếch, sau sự lừa đảo bỏ rơi của nhân tình- Chúng vẫn ngoan cố viện dẫn lý cớ “lịch sử” để đổ lỗi cho nhau, bên bấc bên chì, lỗi nhẹ lỗi nặng! Và họ vẫn là đứa con “ngoan hiền, nhân cách chân chính” của Đại Gia Đình Việt Nam!!!
Viết về “lằn ranh, quan điểm chính nghĩa, chính trị” đến đây, tôi bỗng nhớ cụ Phan Khôi, một nạn nhân của lằn ranh chính trị hận thù, chỉ vì cụ muốn nói thật rõ và thật to ý nghĩ chân thành của mình. Ngày ấy, 1957, mà “lằn ranh chính trị” đã “cho phép” một con người Việt Nam tự chà đạp nhân cách của mình để chứng tỏ lập trưòng chính trị với cụ Phan. Khi cụ Phan tự mừng thọ 70 của mình (1957), cụ cảm khái viết lên câu thơ:
Lên bảy mưoi rồi mẹ nó ơi!
Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai!
Chỉ có thế! Mà lằn rănh, lập trưòng quan điểm chính trị, đã khiến một nhà văn thuộc loại con cháu cụ ( Cụ Phan Khôi sinh năm1887 lớn tuổi hơn cả “Bác Hồ” của họ) là Nguyễn Công Hoan tác giả “Tấm Lòng Vàng” đứng bật dậy, câng câng hãnh diện chứng tỏ lập trưòng vạch rõ lằn ranh:
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
Thọ mi, mi chúc chứ hòng ai!
Văn chương đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết tháo, tiên sư cái mẽ ngoài.
Lô-gíc trước cam làm kiếp chó.
Nhân Văn nay lại hít gì voi.
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai.
Ôi cái làn rănh chính trị chủ nghĩa và tình người nó nằm “đối cực” cay nghiệt như vậy đấy! Nó đánh mất và chà đạp lương tri, tình tự con người, tình tự đồng bào, đạo lý Việt Nam mà thi sĩ Hoàng Cầm đã vựợt qua đưọc lằn rănh chính trị quan điểm để giữ chặt nó trong hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, từ con tim của một “chị đội đấu tố” nhìn ngắm đưá con thuộc “lằn ranh” địa chủ còn sót lại:
….
Chị đội bỗng lùi lại,
Nhìn đưá bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch,
Chỉ thấy một con người!
.. (Em bé lên sáu tuổi)
Nhớ hoàn cảnh của cụ Phan ngày ấy cách đây đã nửa thế kỷ qua, bây giờ nhìn sự tái diễn “lịch sử” này ở trong nước, ở hải ngoại mà tôi lạnh người, toát mồ hôi, khi thấy những cô cậu công an trẻ chặn đường mày tao chi tớ đánh cụ Bảy Trấn, xô ngã cụ Trần Độ; khi thấy những cô cậu có ăn học bằng cấp “quốc gia” Mỹ, Anh, Úc, Đức, Pháp v.v tự hào hãnh diện nêu cao quan điểm chính thống cờ vàng, mạ lỵ ông Nguyễn Cao Kỳ không tiếc lời, chỉ vì ông:
Nhớ quê mình quặn ruột,
Lá rớt rụng về đâu?
Bể dâu đời thay đổi,
Quanh ta vẫn là người!
(NKPTC)
Và vì ông trình bày ý kiến suy nghĩ của ông về đất nước hôm nay, khác quan điểm “truyền thống quốc gia” mà ông từng một thời là lãnh đạo của họ, của cha mẹ họ hay ngay cả ông bà của họ!!!
Có lẽ tôi lại sai một lần nữa các bạn a… Hình như đây không là phải là sụ tái diễn mà chính là sự nối dài của lằn rănh chính trị mới đúng. Sự nối dài của tính phe phái dễ lãng quên đồng bào! Lúc nào cũng chỉ chăm chăm chạy đi cầu người, dựa dẫm người để tấn công đối phương, để giữ quyền, để dành quyền, để lập chính phủ v.v mà chẳng thèm để tâm đến cùng nhân dân đồng bào mình. Khiến họ chỉ chăm chăm nhìn vào đối thủ của họ, và bất cứ cái gì ngưọc với đối thủ của họ tự nhiên trở thành bạn, thành “tình nhân chung thủy” dù “nhân tình” này từng đè đầu cỡi cổ họ, lừa đảo họ và chỉ là một tên gian manh buôn bán những mỹ từ cao đẹp.
Nó ẩn tàng trong cung cách trao đổi đã đành, và còn nằm ngay ở trong lý lẽ “cao đẹp”. Như trong sự nhận định của ông Nguyễn Hải Sơn về dự luật Nhân Quyền HR 1587. Dĩ nhiên tôi giả thiết rằng ông đã đọc nguyên bản dự luật này cũng như tôi. Nhưng tôi không dám chắc là ông N H Sơn “biết và hiểu” nước Mỹ, hệ thống chính trị cũng như chủ trưong của Mỹ như tôi.
Cho nên tôi không vui như ông khi tôi đọc thấy dự luật này “buộc” hay cho phép nhà nước Mỹ dùng một ngân khoản nhất định hàng năm để “yểm trợ” các nhân sự, phong trào dân chủ thông qua các cơ quan không chính phủ được “tiêu chuẩn quốc tế” “đóng mộc.” Thế thì tội tình cho nhân dân tôi quá! Đồng bào Viêt Nam trong nước chúng tôi đấu tranh dân chủ cho chính mình, mà muốn đưọc “tài trợ” ủng hộ v.v cũng phải đạt đủ tiêu chuẩn “Mỹ” nữa. Và điều kiện, nhắm mắt cũng biết, là đấu tranh dân chủ “chống cộng” chứ không đưọc mở miệng lên án Mỹ hay đồng minh Mỹ vi phạm nhân quyền! Loại chân lý nhân quyền một nửa mà các “hội đoàn nhân quyền” gốc Việt, mà thành viên hầu hết đa số từng là nhân sự thừa hành của chế độ độc tài quân phiệt phi nhân quyền miền Nam Việt Nam, đang dựa vào Mỹ để rao giảng!
Hiểu lầm hậu ý chính trị của Mỹ như thế này sẽ đưa đến hậu quả vọng ngoại, ỷ lại của một số đồng bào trong nước.. Ngồi chờ và không chú ý đến đồng bào mình nữa. Đồng bào trong nước mà cùng “dự thảo ăn ý” với nhau về nhân quyền mới thật sự là sức mạnh, mới thật sự vui mừng!
Những người như ông Sơn có bao giờ tự hỏi tại sao Mỹ không đưa ra dự luật nhân quyền nhằm ủng hộ và phát huy dân chủ tự do nhân quyền ở Cu Quắt, Ả Rập SôĐít, Pa Kít Tăn v.v không nhỉ? Những nước đồng minh và cũng là tay tổ đôc tài vi phạm nhân quyền mà có phần trầm trọng hơn nước CHXHCNVN trong vài lãnh vực, Hay cho Pa Lét Tin và Do Thái chẳng hạn! Tức là ấn định những nguyên tắc và giới hạn cho phép chính phủ Mỹ hành xử bang giao, viện trợ, sao cho có lợi cho Mỹ!
Thế thì mục tiêu của chính sách nhân quyền của Mỹ là gì nhỉ? Đành rằng nhà nước CSVN vì hèn và chủ lợi cho Đảng, không phải vì dân, cho nên thế nào cũng thỏa hiệp cách nào đó, cũng có lợi ngắn hạn cho phong trào dân chủ. Nhưng đường dài, nếu ham hố vội vã ôm vào mà không khôn khéo cân nhắc thì sẽ há họng mắc quai! Dân chủ đâu chưa thấy chỉ thấy trở thành lệ thuộc tay sai làm theo “đề nghị của Mỹ”! “Phong trào dân chủ” sẽ không còn dựa vào ý nguyện nhân dân Việt Nam, mà phải lựa lọc sao cho vừa lòng Mỹ để tiếp tục nhận đưọc sự ủng hộ tinh thần và vật chất của Mỹ và phe Mỹ. Bài học rút mấy chục nhân sự quân đội Phi ra khỏi Ia Rắc của bà tổng thống Phi “be bé xinh xinh” Aroyo và lòng vui sướng của nhân dân Phi đối nghịch với cơn “buồn phiền” của phe Mỹ, Anh, Úc, không biết có dạy đưọc những người Việt có não trạng lằn ranh không nhỉ? Không hiểu những người như ông Nguyễn Hải Sơn có đồng hoá phưong trình “ghét CSVN=Yêu dân chủ= Yêu Mỹ”, hay là “yêu dân chủ tự do = ghét tất cả các cơ chế, não trạng hành xử độc tài phi dân chủ, vi phạm tự do nhân quyền”? Mà cả thế giới và đa số người Mỹ đều biết chế độ Bút phi dân chủ, gian lận bầu cử, và vi phạm nhân quyền đấy nhé!
Đặt câu hỏi hay nhận định rằng “Người Mỹ có lý hay không khi đẩy mạnh dân chủ ở các quốc gia khác” là không đúng, và không hiểu gì về Mỹ cả (Nguyễn Văn Thiệu còn sống chắc chắn gật đầu đồng ý với tôi, vì tôi nhớ trước khi từ chức tổng thống để chạy, Thiệu có vạch trần sự “ủng hộ tự do dân chủ” của Mỹ trước nhân dân miền Nam- Và ông Nguyễn Cao Kỳ vẫn còn sống, cũng đã hiểu và nói điều này trong cuộc phỏng vấn với đài BBC- ông cựu thủ tưóng M ã Lai, Ma Ha Tia là bậc thầy về môn “Mỹ học” này). Câu hỏi, hay nhận định phải đặt lại cho đúng là “Người Mỹ có lý hay không khi dùng Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền như là vũ khí để đẩy mạnh quyền lợi của Mỹ ở các quốc gia khác chưa theo Mỹ?” Đây là câu hỏi then chốt mà ngay như cựu tổng thống Mỹ Richard Nixon cũng ngán ngẩm- và giáo sư chính trị P.S Hungtington cũng đặt ra nhưng lúng túng trả lời lộn xộn, khác với sự lý giải khá rõ ràng của nhà kinh tế Mỹ lỗi lạc Paul Krugman. (Các bạn muốn tham khảo để tự tìm câu trả lời xin đọc Victory without War và Beyond Peace của R.M Nixon- The Clash of Civilizations của P.S. Huntington và các bài của Paul Krugman trong NY Times)
Cũng vì thế mà tôi, không như ông Sơn, không tâm đắc cái câu gì gì mà Bút đã nói ở đâu đó! Tôi khinh và buồn nôn cái câu nói đó thì đúng hơn- cũng giống như người ta buồn nôn cái chữ tiết hạnh nết na phát ra từ cửa miệng của một ả lăng loàn trắc nết. Hoặc lời nói của cựu tổng Bin Tợn nói về luân lý gia đình, lòng chung thủy vợ chồng, và tinh thần bảo vệ phụ nữ vậy! Nghe phải bịt mũi! Nói thẳng ra là nước Mỹ, vói chính sách và thái độ ngoại giao mấy chục năm nay từ sau đệ nhị thế chiến, và ngay trong nước Mỹ đối với những ngừơi da đen, Mỹ không đủ tư cách và tư thế nói chuyện nhân quyền với ai hết.
Tôi sẽ yêu thích cái câu ấy hay bất cứ câu nói nào mang giá trị tư tưỏng nhân bản tự do dân chủ từ những người dân chủ như ông Nelson Mandela, đặc biệt là từ cửa miệng đồng bào của tôi, như những câu như “Tự Do hay Là Chết” hay vừa mới đây những câu nói dõng dạc cưong quyết của ông Phạm Quế Dưong trong phiên tòa định án ông: “Phải giữ lấy đất nước!”
Một nước Mỹ lừa bịp cả thế giới về “buóc tiến đổ bộ mặt trăng”[9][1], thủ tiêu một số phi hành gia để bịt miệng, rồi bây giờ cùng hư cấu lý cớ tấn công một quốc gia chủ quyền[10][2], và nhà nước Mỹ chuyên ủng hộ độc tài[11][3], thì tin vào nó mà ca ngợi, rồi bỏ quên vận động đồng bào, thì lằn ranh bước qua làm tay sai lệ thuộc chỉ là sợi tóc mai.
Tóc mai có thể vẫn còn cái độ dầy may mắn! Vì với não trạng lằn ranh ở ngoài này, khi ngưòi ta già mồm lên án bên trong Việt nam “luân lý đạo đức xuống cấp”! Đúng có xuống cấp! Nhưng ở Việt Nam vẫn còn có “luân lý đạo đức Việt Nam” để thấy nó xuống cấp! Chứ ở ngoài này sau 39 năm ăn ở với nếp Tây phương, ngưòi ta không còn thấy xuống cấp nữa! Bởi ngưòi gốc Việt đã hội nhập từ thế hệ thứ nhất có còn văn hoá đạo lý Việt Nam nữa đâu để mà xuống cấp!!!
Đấu Tranh Dân Chủ là Đoạn Tuyệt vói Cơ Chế Não Trạng Độc Tài, và phải khởi đi từ Chính Mình- và Hoà Gìải giữa những Con Người!
Đấu tranh dân chủ, tự do, nhân quyền, khác với đấu tranh chính trị tranh giành quyền lực ở chỗ chúng ta không thể dùng thủ đoạn đánh lừa dân trí, dựa dẫm thế lực người ngòai để mị dân, để đạt thành quả ngắn hạn, mà phải lấy sự thật vận động sự thật từ người dân làm nền tảng, làm tiêu chí, làm vũ khí để kết hợp và vận động toàn dân, để đoạn tuyệt vói cơ chế não trạng độc tài ngay từ trong chính mình trước và tiến hành hoà gìải giữa những con người Viêt Nam.
Sức mạnh của công cuốc đấu tranh Dân Chủ là sự thật, là thế hệ hôm nay, cho nên bổ phận và trách nhiệm của những người có liên hệ quá khứ chúng ta là phải sòng phẳng với quá khứ! Phải bình thưòng hoá chính trị đấu tranh trong phê bình nhận định- Xóa bỏ lằn ranh- Vì bẩy mươi phần trăm (70%) tổng dân số Việt Nam hôm nay là tuổi 35 trở xuống! Thế hệ sinh ra trưởng thành từ thời điềm 1975! Đất nước là của thế hệ này, tương lai Viêt Nam nằm trong tay thế hệ này! Họ chẳng có lấn cấn quốc cộng cờ quạt gì hết! Đừng lôi kéo họ vào con đường nhơ bẩn, lằn ranh đẫm máu tưong tàn mà chúng ta đã sai lầm khổ nhục kinh qua!
Như vậy, chúng ta, những kẻ hai bên, còn quyền hay đã mất quyền bính, còn sót lại của thế hệ cuộc chiến cũ, đừng làm mất cơ hội hòa giải giữa con người Việt nam. Chúng ta phải hòa giải giữ con ngưòi- Nhưng không đưọc hòa giải với cơ chế độc tài phi dân chủ- Không tưong nhưọng quyền lực phi nhân quyền- Cơ chế độc tài, độc đảng, phi dân chủ tự do phải bị tháo gỡ tận gốc rễ- tháo gỡ ngay trong não trạng hành xử của chính chúng ta- Chúng ta phải nên đi tiên phong làm gương, gỡ cái lỗi của mình với thế hệ con cháu mình, phải can đảm và tự trọng làm bổn phận, trách nhiệm của mình. Đó là nhìn nhận những sai trái mà mình đã từng cho là đúng; và nhìn nhận những gì đúng mình đã từng cho là sai!
Ðể đồng bào anh em của chúng ta thấy rõ được bản chất của cuộc chiến, không phải trong phim ảnh của Mỹ, phe phái chính trị, hay tuyên truyền của chế độ CSVN, mà là chính trong ánh mắt, thân phận của nhau. Ðể thấy tất cả chúng ta chỉ là nạn nhân của những tay bịp bợm buôn bán chính nghĩa dân tộc. Buôn bán xác thân người Việt, non sông đất Việt.
Tôi xin phép được chấm dứt bài viết này bằng những ý nghĩ tản mạn ghi nhanh, những ngày cuối trên đất Mỹ khi nghĩ về chuyện lá Cờ và Lằn Ranh, như là lời tâm sự tạm biệt cùng mọi người:
Người Việt Nam ! Chúng ta là ai?
Danh từ Việt Nam, cái tên gọi thân thương ngàn đời này có cần thêm một tính từ nào nữa hay không? Cộng Sản – Quốc Gia? Cộng Hòa?
Chúng Ta, người Việt Nam đứng cùng ai hôm nay?
Nhân dân Mỹ? Úc? Anh? Pháp?, Đức? Nga?Tiệp? Balan?
Chúng ta đứng cùng với nhau. Đứng giữa đồng bào, nhân dân mình mà tiến bước.
Chúng ta, người Việt Nam đứng ở đâu hôm nay?
Đất Mỹ, Đức, Úc, Anh Pháp, Nga, Tiệp, Balan? ??
Chúng ta cùng nhau. Nắm lấy tay nhau, cùng đứng giữa Đất Nước Viêt Nam, Tổ Quốc đã bao năm khốn khó rạc rài, và hôm nay đây đang hao mòn vỡ vụn, để cùng siết tay đồng bào, lôi nhau đứng dậy , kéo nhau cùng tiến bước, đạp lên trên hết tất cả chưóng ngại của đố kỵ, vị kỷ, bóng của quá khứ phân chia, hư cấu lịch sử gian mamh, để chỉ còn sức mạnh tinh khiết của tinh thần DUY VIỆT, của nhnữg con người Việt Nam đồng nhất, không thêm bớt, không phụ thuộc những tính từ giả tưởng vay mượn phù phiếm.
Chúng ta đứng giữa Đồng Bào và Tổ Quốc Việt nam chúng ta. Chúng Ta nói với nhau những lời thương yêu ngắt ra từ những lời thơ, giòng ca dao từ ngàn năm hồ Động Đình; Chúng ta có hô hào phê phán nhau, và ngay cả dẫu chúng ta có điều chi gào thét chì chiết nhau, thì xin hãy nói với nhau bằng ngôn ngữ Việt-Nam bẻ ra từ cánh rừng tục ngữ, hịch văn, từ rừng núi Ngũ Lĩnh … Đừng để rồi lời kia vẫn âm vang xa lạ giọng mình vọng về từ Hoa Thịnh Đốn, Bá Linh, Bắc Kinh, Ba lê hay Mạc tư Khoa..
Chúng ta đúng giữa Đồng Bào, giữa Tổ Quốc Việt Nam dấu yêu, dù đã hao mòn nứt nẻ.. Để choàng lên nhau những vòng hoa thương yêu kết từ rừng Trường Sơn, U Minh, hay Cao Bắc Lạng…Nếu có giận nhau, xin hãy chét lên nhau những bùn đọng nơi sông Hồng, Sông Cửu.. Nếu có ném nhau, xin hãy ném bằng hòn đá núi Tản, núi Bà Đen… để rồi hãy rửa tấm thân đau đớn thương vong, hình hài Việt Nam của Cha Mẹ Lạc Long Âu Cơ đã sinh thành, bằng những gịot nước của Hồ Gươm, từ Hồ Tây, nơi Hồ Than Thở, trong khe Suối Tiên..
Chúng ta đứng giữa Đồng Bào chúng ta, và Tổ Quốc chúng ta.. Để ôm nhau như bản thân mình, đau vết thương quá khứ vẫn rỉ máu của mình và của anh chị em mình, như của chính chúng ta. Chúng ta đau vết đau chung của cả dân tộc này.
Sức mạnh của Chúng ta sẽ khởi lên từ sự cảm thông được thân phận của nhau, đau vết thương của nhau, và tất cả sẽ đau vết thưong của cả dân tộc. Lằn ranh, cờ quạt chỉ còn là những đống rác nhỏ bên đường Hoa Thịnh Đốn, lối đi Mạc Tư Khoa, ngõ hẻm Bá linh, sân chơi Bắc Kinh..
Sức mạnh trong sáng và tinh khiết này sẽ đưa chúng ta đạp lên cường quyền độc trị CSVN.. tiến thẳng về huớng tự do dân chủ đích thật..
Và đây chỉ là bước khởi đầu của một nước Việt Nam mới. Tất cả chúng ta còn trách nhiệm vói thế hệ nối tiếp trong công cuộc xây dựng lại Con Người Việt Nam, tinh thần Duy Việt - để sống còn và phát triển trong môi trưòng toàn cầu tưong tranh đầy gian trá và bội phản.
Mỗi chúng ta, hôm nay, hãy rũ bỏ tất cả, và minh định lại, tự nhủ với chính mình và truyền cho con cháu mình, trong bất kỳ công việc lãnh vực nào đều tự nhủ:
“Tôi đứng giũa đồng bào và đất nước tôi! Trong cuộc Đấu Tranh này, và mãi mãi ngàn sau.”
Nguyên Khả Phạm Thanh Chuơng.
Đất tạm dung đêm 15 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-2004)
[5][1] Lương Ngọc Quyến, còn có tên là Lương Lập Nham. Người làng Nhị Khê, (Hà Đông). Lương Ngọc Quyến là con của nhà chí sĩ Lương Văn Can, người đã xướng ra phong trào Tân Học (cuối 1906).
Lương Ngọc Quyến cầm đầu cuộc nổi dậy ở Thái Nguyên năm 1917 để chống thực dân Pháp. Năm 1917, Lương Ngọc Quyến đã bị Pháp nhờ nhà cầm quyền Anh bắt ở Hương Cảng, đem về giam tại ngục Thái Nguyên. Nơi đây ông bị bọn tay sai của Pháp tra khảo hết sức tàn tệ. Nhưng gương hy sinh và lòng chân thành vì dân tộc đất nước của ông đã cảm hóa được một số lính Việt tay sai cho Pháp, trong đó có một viên đội ở tỉnh này là Trịnh Văn Cấn.
Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 8 năm 1917, gồm tất cả hơn 300 người lính do Trịnh Văn Cấn cầm đầu và Lương Ngọc Quyến nổi lên đánh Pháp. Lúc đầu nghĩa quân tuy được một vài thắng lợi và làm chủ được tình thế như cướp kho súng, hạ sát viên Giám Binh, chiếm hết các công sở, phá nhà lao thả hết tù nhân và tấn công vào đồn lính Lê Dương. Nhưng sau khi viện binh của Pháp từ Hà Nội kéo vào quá đông, sau 7 ngày giao chiến, nghĩa quân bị đánh dồn về Tam Đảo. Lương Ngọc Quyến vì bị thương, sợ chậm bước thoát của các nghĩa quân nên ông tự vẫn trước khi rút quân khỏi Thái Nguyên. Quân Pháp truy nã gắt gao. Đội Cấn biết thế giữ không nổi, liền cho nghĩa quân mở đường máu, chọc thủng vòng vây sang Vĩnh Yên và Phúc Yên. Nơi đây nghĩa quân của Đội Cấn chống giữ được 3 tháng. Quân Pháp tấn công mãnh liệt khắp nơi. Đội Cấn hiên ngang chiến đấu đến phút cuối cùng và để giữ tròn danh dự của một vị chỉ huy, ông đã dùng súng tự tử.
[6][2] Nguyên Khả, Núi sông có mấy nẻo tình” 2000.
[8][2] “Lịch Sử Đảng Cộng Sản Đông Dương” Nhà xuất bản Sách Giáo Khoa Mác LêNin, Hà Nội-1979)
[9][1] Cuộc đổ bộ măt trăng của A pô lô 11 năm 1969 chỉ là một tập phim đóng ở Neveda do đạo diễn Hồ Ly Vọng Satnley Kubrick đưọc nhà nưóc Mỹ giao phó dàn dựng theo nhu cầu chiến tranh lạnh. http://www.ufos-aliens.co.uk/cosmicapollo.html.
[10][2] Tấn công Ia Rắc vì Ia rắc có vũ khí toàn diệt, liên hệ với khủng bố- Ủy ban Quốc Hội Mỹ, LHQ chúng minh hoàn toàn không có!!!!
No comments:
Post a Comment